LUẬN A TỲ ĐẠT MA ĐẠI TỲ BÀ SA
Năm trăm Đại A-la-hán cùng tạo luận
Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang dịch Phạn sáng Hán
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

CHƯƠNG VII: ĐỊNH UẨN

Phẩm Thứ Tư: LUẬN VỀ BẤT HOÀN

(Từ quyển 174 – quyển 183)

Có năm loại Bất hoàn, đó là Trung bát Niết-bàn, Sinh bát Niếtbàn, Hữu hành bát Niết-bàn, Vô hành bát Niết-bàn và Thượng lưu vãng Sắc Cứu Cánh, là năm loại thâu nhiếp tất cả, hay là tất cả thâu nhiếp năm loại? Các chương như vậy và giải thích về nghĩa của từng chương đã lĩnh hội rồi, nay cần phải phân biệt rộng ra.

Hỏi: Vì sao soạn ra phần luận này?

Đáp: Bởi vì muốn phân biệt nghĩa lý trong kinh. Như trong kinh nói: “Có năm loại Bất hoàn, đó là Trung bát Niết-bàn…” Kinh ấy tuy nói ra điều này, mà không nói rõ là năm loại thâu nhiếp tất cả, hay là tất cả thâu nhiếp năm loại, cũng chưa hề hiển bày về mạnh-yếu sai biệt, nay cần phải trình bày đầy đủ, cho nên soạn ra phần luận này.

Hỏi: Là năm loại thâu nhiếp tất cả, hay là tất cả thâu nhiếp năm loại?

Đáp: Tất cả thâu nhiếp năm loại, không phải là năm loại thâu nhiếp tất cả. Không thâu nhiếp những gì? Đó là Bất hoàn nhập Niếtbàn trong pháp hiện tại(hiện pháp bát niết-bàn) và Bất hoàn sinh đến cõi Vô sắc.

Trong này, tất cả là nhiều chứ không phải là năm loại, cho nên tất cả thâu nhiếp năm loại, không phải là năm thâu nhiếp tất cả; giống như cái chậu lớn che phủ cái chậu nhỏ, chứ không phải là cái chậu nhỏ che phủ cái chậu lớn.

Tất cả, đó là bảy loại Bất hoàn, tức là năm loại trước, cọng thêm

Bất hoàn nhập Niết-bàn trong pháp hiện tại và Bất hoàn sinh đến cõi Vô sắc. Trong đó, hai loại sau không phải là do năm loại thâu nhiếp, cho nên gọi là nhiều.

Hỏi: Cũng có loại nhập Niết-bàn không nhất định, đó là hoặc ở tại cõi Dục mà nhập Niết-bàn, hoặc ở tại cõi Sắc mà nhập Niết-bàn, hoặc ở tại cõi Vô sắc mà nhập Niết-bàn, vì sao trong này không nói?

Đáp: Cần phải nói mà không nói đến, thì nên biết là nghĩa này có khác.

Lại nữa, loại ấy chính là thâu nhiếp ở trong bảy loại Bất hoàn, cho nên không nói riêng biệt. Nghĩa là loại ấy nếu nhập Niết-bàn ở cõi Dục, thì chính là thuộc về Bất hoàn nhập Niết-bàn trong pháp hiện tại; nhập Niết-bàn ở cõi Sắc thì thuộc về năm loại Bất hoàn; nhập Niết-bàn ở cõi Vô sắc thì thuộc về Bất hoàn sinh đến cõi Vô sắc.

Hỏi: Cũng có loại chuyển sinh mà nhập Niết-bàn, đó là người ấy hoặc từ phần vị qua lại bảy lần cuối cùng trong sinh tử (cực thất phản hữu), hoặc từ phần vị Gia gia, hoặc từ phần vị Nhất lai, hoặc từ phần vị Nhất gián, đạt được quả Bất hoàn, người ấy đạt được quả rồi nhất định ở đời này có thể nhập Niết-bàn, người ấy không phải là nhập Niết-bàn trong pháp hiện tại, bởi vì trong kinh nói: “Thế nào là nhập Niết-bàn trong pháp hiện tại? Đó là ngay đời này đạt được quả Dự lưu, tiến tới đoạn kiết còn sót lại, đạt được quả Nhất lai-Bất hoàn và quả A-la-hán.” Bởi vì nhân duyên này cho nên chuyển sinh mà nhập Niết-bàn không phải là do bảy loại thâu nhiếp, vì sao trong này không nói?

Đáp: Cần phải nói mà không nói đến, thì nên biết là nghĩa này có khác.

Lại nữa, loại ấy do chán ngán đầu thai(thọ sinh) cho nên đạt được quả Bất hoàn rồi, chưa trải qua bao lâu thì nhập Niết-bàn, bởi vì ở trong thời gian ấy rất ngắn ngủi, cho nên không có thể kiến lập, vì vậy không nói đến.

Lại nữa, loại ấy cũng thâu nhiếp ở trong Bất hoàn nhập Niết-bàn trong pháp hiện tại, cho nên không nói riêng biệt, bởi vì dựa vào đời này đạt được quả Bất hoàn, thì nhập Niết-bàn ngay ở đời này.

Hỏi: Trung bát Niết-bàn và Sinh bát Niết-bàn, loại nào là hơn hẳn?

Đáp: Nếu trú và đoạn bằng nhau thì Trung bát Niết-bàn là hơn hẳn, nếu Sinh bát Niết-bàn đoạn kiết nhiều thì loại ấy là hơn hẳn. Nghĩa là hai Bất hoàn này nếu cùng có đủ phiền não(phược) của Tĩnh lự thứ nhất, cho đến nếu cùng đoạn kiết thuộc tám phẩm trước của Tĩnh lự thứ tư, thì Trung bát Niết-bàn do ba điều cho nên hơn hẳn:

1. Nhận lấy khổ ít hơn, bởi vì loại này nhận lấy khổ của một đời(hữu), loại kia nhận lấy khổ của hai đời.

2. Nhanh chóng dập tắt lửa phiền não.

3. Nhanh chóng rời bỏ gánh nặng của Uẩn. Nếu Trung bát Niếtbàn có đủ phiền não của Tĩnh lự thứ nhất, cho đến đoạn kiết thuộc bảy phẩm trước của Tĩnh lự thứ tư; Sinh bát Niết-bàn đoạn một phẩm kiết của Tĩnh lự thứ nhất, cho đến đoạn kiết thuộc tám phẩm trước của Tĩnh lự thứ tư, thì Sinh bát Niết-bàn do một điều cho nên hơn hẳn, đó là trú nhiều trong đoạn.

Hỏi: Trung bát Niết-bàn cho đến Thượng lưu vãng Sắc Cứu Cánh, loại nào là hơn hẳn?

Đáp: Nếu trú và đoạn bằng nhau thì Trung bát Niết-bàn là hơn hẳn; nếu cho đến Thượng lưu vãng Sắc Cứu Cánh đoạn kiết nhiều thì loại ấy là hơn hẳn. Nghĩa là Trung bát Niết-bàn, nếu so với Hữu hành bát Niết-bàn và Vô hành bát Niết-bàn, thì đều nói như so với Sinh bát Niết-bàn; nếu so với Thượng lưu vãng Sắc Cứu Cánh thì có sai biệt đối với nhận lấy khổ, đó là bởi vì loại này chỉ nhận lấy khổ của một đời, loại kia ít nhất phải nhận lấy khổ của bốn đời, còn lại nói như trước.

Hỏi: Như vậy Sinh bát Niết-bàn, cho đến Thượng lưu vãng Sắc Cứu Cánh; Hữu hành bát Niết-bàn, cho đến Thượng lưu vãng Sắc Cứu Cánh; Vô hành bát Niết-bàn và Thượng lưu vãng Sắc Cứu Cánh, loại nào là hơn hẳn?

Đáp: Nếu trú và đoạn bằng nhau thì Sinh bát Niết-bàn… là hơn hẳn. Nếu Hữu hành bát Niết-bàn… đoạn kiết nhiều thì loại ấy là hơn hẳn. Nghĩa là các Bất hoàn này tùy theo sự đối lập với nhau, nếu cùng có đủ phiền não của Tĩnh lự thứ nhất, cho đến nếu cùng đoạn kiết thuộc tám phẩm trước của Tĩnh lự thứ tư, thì Sinh bát Niết-bàn so với Hữu hành bát Niết-bàn, do một điều cho nên hơn hẳn, đó là Sinh bát Niếtbàn có sự chuyên cần về Tu đạo và nhanh chóng tiến thêm về đạo, Hữu hành bát Niết-bàn chỉ có sự chuyên cần về Tu đạo mà không có nhanh chóng tiến thêm về đạo; so với Vô hành bát Niết-bàn, do hai điều cho nên hơn hẳn, bởi vì loại ấy không có sự chuyên cần về Tu đạo cũng không có nhanh chóng tiến thêm về đạo; so với Thượng lưu vãng Sắc Cứu Cánh, do một điều cho nên hơn hẳn, đó là nhận lấy khổ ít hơn, bởi vì loại này nhận lấy khổ của hai đời, loại kia ít nhất phải nhận lấy khổ của bốn đời.

Hữu hành bát Niết-bàn so với Vô hành bát Niết-bàn, do một điều cho nên hơn hẳn, bởi vì loại này có sự chuyên cần về Tu đạo, loại kia không có cả hai; so với Thượng lưu vãng Sắc Cứu Cánh, do một điều cho nên hơn hẳn, đó là nhận lấy khổ ít hơn, bởi vì loại này nhận lấy khổ của hai đời, loại kia ít nhất phải nhận lấy khổ của bốn đời.

Vô hành bát Niết-bàn so với Thượng lưu vãng Sắc Cứu Cánh, cũng do một điều cho nên hơn hẳn, đó là nhận lấy khổ ít hơn, bởi vì loại này nhận lấy khổ của hai đời, loại kia ít nhất phải nhận lấy khổ của bốn đời.

Nếu Sinh bát Niết-bàn… có đủ phiền não của Tĩnh lự thứ nhất, cho đến đoạn kiết thuộc bảy phẩm trước của Tĩnh lự thứ tư, Hữu hành bát Niết-bàn… đoạn một phẩm kiết của Tĩnh lự thứ nhất, cho đến đoạn kiết thuộc tám phẩm trước của Tĩnh lự thứ tư, thì Hữu hành bát Niết-bàn…, so với Sinh bát Niết-bàn…, do một điều cho nên hơn hẳn, đó là trú nhiều trong đoạn.

Lại nữa, luận Tập Dị Môn nói: “Có năm loại Bổ-đặc-già-la Bất hoàn, đó là Trung bát Niết-bàn, cho đến Thượng lưu vãng Sắc Cứu Cánh”.

Thế nào là Trung bát Niết-bàn? Đó là có Bổ-đặc-già-la, trong đời trước đã đoạn-đã biết khắp đối với năm kiết thuận phần dưới, chưa đoạn-chưa biết khắp đối với năm kiết thuận phần trên, tạo tác tăng trưởng thuận theo Khởi hữu mà thọ nghiệp, không tạo tác tăng trưởng thuận theo Sinh hữu mà thọ nghiệp, từ đó mạng chung khởi lên Trung hữu của cõi Sắc, liền trú vào Trung hữu ấy đạt được đạo vô lậu thuộc chủng loại như vậy. Nhờ vào lực của đạo này tiến tới đoạn kiết còn sót lại, mà nhập Niết-bàn ở cảnh giới Niết-bàn Vô dư y, đó gọi là Trung bát Niết-bàn.”

Hỏi: Vì sao gọi là Trung bát Niết-bàn?

Đáp: Bổ-đặc-già-la này đã vượt qua cõi Dục, chưa đến cõi Sắc, trú vào Trung hữu ấy mà nhập Niết-bàn, cho nên gọi là Trung bát Niếtbàn.

Lại nữa, Bổ-đặc-già-la này là lợi căn, bởi vì phiền não nhẹ nhàng, có thể ở phần vị Trung hữu mà nhập Niết-bàn, cho nên gọi là Trung bát Niết-bàn.

Lại nữa, Bổ-đặc-già-la này trước đây đạt được có tâm, có tâm không gián đoạn đạt được tâm Học, tâm Học không gián đoạn đạt được tâm Vô học, tâm Vô học không gián đoạn đạt được tâm Phi học phi vô học, liền trú vào tâm ấy mà nhập Niết-bàn, cho nên gọi là Trung bát Niết-bàn.

Hỏi: Ở đây nói đến Dục sai biệt là ai?

Đáp: Dục sai biệt là Thánh giả khác, nghĩa là Thánh giả khác đối với tâm Học không gián đoạn, hoặc là khởi lên tâm Vô học, hoặc là khởi lên tâm Phi học phi vô học; loại này thì không như vậy, tâm Học không gián đoạn, nhất định khởi lên tâm Vô học. Thánh giả khác đối với tâm Phi học phi vô học không gián đoạn, hoặc là nhập Niết-bàn, hoặc lại khởi lên tâm Vô học; loại này thì không như vậy, tâm Phi học phi vô học không gián đoạn, nhất định nhập Niết-bàn. Bởi vì Thánh giả khác thường xuyên khởi lên Thánh đạo hiện rõ ở trước mắt, loại này thì không thường xuyên khởi lên.

“Thế nào là Sinh bát Niết-bàn? Đó là có Bổ-đặc-già-la, trong đời trước đã đoạn-đã biết khắp đối với năm kiết thuận phần dưới, chưa đoạn-chưa biết khắp đối với năm kiết thuận phần trên, tạo tác tăng trưởng thuận theo Khởi hữu mà thọ nghiệp, thuận theo Sinh hữu mà thọ nghiệp, từ đó mạng chung khởi lên Trung hữu của cõi Sắc, sinh vào trời cõi Sắc, sinh rồi chưa bao lâu đạt được đạo vô lậu thuộc chủng loại như vậy. Nhờ vào lực của đạo này tiến tới đoạn kiết còn sót lại, mà nhập

Niết-bàn ở cảnh giới Niết-bàn Hữu dư y, đó gọi là Sinh bát Niết-bàn.” Hỏi: Vì sao gọi là Sinh bát Niết-bàn?

Đáp: Bổ-đặc-già-la này, sinh ở đó chưa bao lâu thì đạt được quả

A-la-hán mà nhập Niết-bàn, cho nên gọi là Sinh bát Niết-bàn.

Lại nữa, Bổ-đặc-già-la này, sinh ở đó chưa bao lâu thì đạt được quả A-la-hán, hết thọ lượng của nơi ấy mới nhập Niết-bàn, cho nên gọi là Sinh bát Niết-bàn.

Hỏi: Nếu hết thọ lượng của nơi ấy mới nhập Niết-bàn, thì vì sao gọi là Sinh bát Niết-bàn?

Đáp: Bởi vì dựa vào phiền não mà nói Niết-bàn, không phải là dựa vào Uẩn mà nói Niết-bàn, cho nên không có lỗi.

“Thế nào là Hữu hành bát Niết-bàn? Đó là có Bổ-đặc-già-la, trong đời trước dựa vào đạo có hành luôn luôn tác ý, dựa vào Tam-mađịa không ngừng gia hạnh, đã đoạn-đã biết khắp đối với năm kiết thuận phần dưới, chưa đoạn-chưa biết khắp đối với năm kiết thuận phần trên, tạo tác tăng trưởng thuận theo Khởi hữu mà thọ nghiệp, thuận theo Sinh hữu mà thọ nghiệp, từ đó mạng chung khởi lên Trung hữu của cõi Sắc, sinh vào trời cõi Sắc, sinh rồi trải qua thời gian dài. Lại dựa vào đạo có hành luôn luôn tác ý, dựa vào Tam-ma-địa không ngừng gia hạnh, tiến tới đoạn kiết còn sót lại, mà nhập Niết-bàn ở cảnh giới Niết-bàn Hữu dư y, đó gọi là Hữu hành bát Niết-bàn.”

Hỏi: Vì sao gọi là Hữu hành bát Niết-bàn?

Đáp: Bổ-đặc-già-la này nhờ vào đạo có hành, đoạn phiền não còn sót lại mà nhập Niết-bàn, cho nên gọi là Hữu hành bát Niết-bàn.

Lại nữa, Bổ-đặc-già-la này nhờ vào đạo có hành, đạt được quả A-la-hán, hết thọ lượng ấy mà nhập Niết-bàn, cho nên gọi là Hữu hành bát Niết-bàn.

Lại nữa, Bổ-đặc-già-la này dựa vào đạo duyên với hữu vi, tiến tới đoạn kiết còn sót lại mà nhập Niết-bàn, cho nên gọi là Hữu hành bát Niết-bàn.

“Thế nào là Vô hành bát Niết-bàn? Đó là có Bổ-đặc-già-la, trong đời trước dựa vào đạo không có hành, không luôn luôn tác ý, dựa vào Tam-ma-địa dừng lại gia hạnh, đã đoạn-đã biết khắp đối với năm kiết thuận phần dưới, chưa đoạn-chưa biết khắp đối với năm kiết thuận phần trên, tạo tác tăng trưởng thuận theo Khởi hữu mà thọ nghiệp, thuận theo Sinh hữu mà thọ nghiệp, từ đó mạng chung khởi lên Trung hữu của cõi Sắc, sinh vào trời cõi Sắc, sinh rồi trải qua thời gian dài. Lại dựa vào đạo không có hành, không luôn luôn tác ý, dựa vào Tam-ma-địa dừng lại gia hạnh, tiến tới đoạn kiết còn sót lại, mà nhập Niết-bàn ở cảnh giới

Niết-bàn Hữu dư y, đó gọi là Vô hành bát Niết-bàn.” Hỏi: Vì sao gọi là Vô hành bát Niết-bàn?

Đáp: Bổ-đặc-già-la này nhờ vào đạo không có hành, đoạn phiền não còn sót lại mà nhập Niết-bàn, cho nên gọi là Vô hành bát Niếtbàn.

Lại nữa, Bổ-đặc-già-la này nhờ vào đạo không có hành, đạt được quả A-la-hán, hết thọ lượng ấy mà nhập Niết-bàn, cho nên gọi là Vô hành bát Niết-bàn.

Lại nữa, Bổ-đặc-già-la này dựa vào đạo duyên với vô vi, tiến tới đoạn kiết còn sót lại mà nhập Niết-bàn, cho nên gọi là Vô hành bát Niết-bàn.

“Thế nào là Thượng lưu vãng Sắc Cứu Cánh? Đó là có Bổ-đặcgià-la, trong đời trước đã đoạn-đã biết khắp đối với năm kiết thuận phần dưới, chưa đoạn-chưa biết khắp đối với năm kiết thuận phần trên, đạt được bốn Tĩnh lự thế tục, lúc sắp mạng chung thì lui sụt ba Tĩnh lự trên, trú vào Tĩnh lự thứ nhất. Bởi vì dựa vào ái của địa ấy và địa ấy, tạo tác tăng trưởng thuận theo Khởi hữu mà thọ nghiệp, thuận theo Sinh hữu mà thọ nghiệp, từ đó mạng chung khởi lên Trung hữu của cõi Sắc, sinh vào cõi trời Phạm Chúng. Sinh rồi lại có thể tiến vào Tĩnh lự thứ hai thuộc thế tục, bởi vì dựa vào ái của địa ấy và địa ấy, tạo tác tăng trưởng thuận theo Khởi hữu mà thọ nghiệp, thuận theo Sinh hữu mà thọ nghiệp, từ đó mạng chung sinh vào cõi trời Cực Quang Tịnh. Sinh rồi lại có thể tiến vào Tĩnh lự thứ ba thuộc thế tục, bởi vì dựa vào ái của địa ấy, cho đến từ đó mạng chung sinh vào cõi trời Biến Tịnh. Sinh rồi lại có thể tiến vào Tĩnh lự thứ tư thuộc thế tục, bởi vì dựa vào ái của địa ấy, cho đến từ đó mạng chung sinh vào cõi trời Quảng Quả. Sinh rồi lại có thể khởi lên phẩm Hạ tu xen lẫn Tĩnh lự thứ tư thuộc thế tục, bởi vì dựa vào ái của địa ấy, cho đến từ đó mạng chung sinh vào cõi trời Vô Phiền. Như vậy cho đến lần lượt khởi lên tất cả bốn phẩm còn lại, tu xen lẫn ở Tĩnh lự thứ tư thuộc thế tục, lần lượt sinh đến ở tất cả bốn cõi trời còn lại. Đó gọi là Thượng lưu vãng Sắc Cứu Cánh.”

Hỏi: Vì sao gọi là Thượng lưu vãng Sắc Cứu Cánh?

Đáp: Lưu có hai loại, một là do ái sinh tử, hai là do nghiệp đời sau. Bổ-đặc-già-la này đối với hai loại Lưu đều chưa đoạn-chưa biết khắp, từ đây làm duyên và làm nhân, hiện hành ở cõi trên-hiện hành theo cõi trên, qua lại ở cõi trên-qua lại theo cõi trên, thọ nhận ở cõi trên-thọ nhận theo cõi trên, lưu chuyển ở cõi trên-lưu chuyển theo cõi trên, cho nên gọi là Thượng lưu vãng Sắc Cứu Cánh.

Lại nữa, Bổ-đặc-già-la này không hiện hành ở cõi dưới, chỉ hiện hành thắng tiến đạt được Định và sinh ra chuyển lên cõi trên-chuyển sang vi diệu-chuyển sang thù thắng, tiến vào Định ấy-thọ sinh nơi ấy, cho nên gọi là Thượng lưu vãng Sắc Cứu Cánh.

Lại nữa, Bổ-đặc-già-la này lưu chuyển ở cõi trên-sinh đến cõi trên, làm cho nối tiếp nhau sinh đến cõi trên, cho nên gọi là Thượng lưu.

Hỏi: Dị sinh cũng có lưu chuyển ở cõi trên-sinh đến cõi trên, làm cho nối tiếp nhau sinh đến cõi trên, vì sao không gọi là Thượng lưu?

Đáp: Nếu chỉ lưu chuyển ở cõi trên chứ không lưu chuyển ở cõi dưới, thì gọi là Thượng lưu; dị sinh lưu chuyển ở cõi trên mà cũng lưu chuyển ở cõi dưới, cho nên không gọi là Thượng lưu.

Có người nói: Nếu lưu chuyển ở cõi trên, khắp tất cả mọi nơi không có gì chướng ngại, thì gọi là Thượng lưu; dị sinh không có thể ở khắp tất cả mọi nơi không có gì chướng ngại, cho nên không gọi là Thượng lưu, bởi vì họ ở cõi Tịnh Cư thì có chướng ngại.

Hỏi: Thánh giả lưu chuyển ở cõi trên cũng có chướng ngại đối với hai nơi, đó là Đại Phạm Vương và Vô tưởng xứ, vì sao có thể gọi là Thượng lưu?

Đáp: Bởi vì nơi ấy không có xứ sở riêng biệt, mà thuộc về hai cõi Phạm Phụ-Quảng Quả, cho nên vẫn có thể gọi là khắp tất cả mọi nơi.

Có người nói: Nếu lưu chuyển ở cõi trên, mà có thể vượt qua cõiđạt được quả, vĩnh viễn đoạn trừ năm kiết thuận phần dưới, thì gọi là Thượng lưu; dị sinh tuy có thể vượt qua cõi mà không đạt được quả, cũng không vĩnh viễn đoạn trừ năm kiết thuận phần dưới, cho nên không gọi là Thượng lưu.

Có người nói: Đầy đủ ba loại Lưu thì gọi là Thượng lưu, đó là nghiệp-phiền não cùng với Thánh giả; dị sinh chỉ có lưu chuyển của nghiệp-phiền não chứ không có lưu chuyển của Thánh giả, vì vậy không gọi là Thượng lưu.

Lại nữa, Thượng lưu có hai loại:

  1. Hiện hành ở cõi Sắc.
  2. Hiện hành ở cõi Vô sắc.

Hiện hành ở cõi Sắc là cho đến cõi trời Sắc Cứu Cánh. Hiện hành ở cõi Vô sắc là cho đến cõi trời Phi tưởng phi phi tưởng. Vả lại, hiện hành ở cõi Sắc thì có tu xen lẫn Tĩnh lự, hiện hành ở cõi Vô sắc thì không có tu xen lẫn Tĩnh lự.

Lại nữa, Thượng lưu có ba loại:

  1. Vượt qua toàn bộ.
  2. Vượt qua một nửa.
  3. Chết ở tất cả mọi nơi.

Vượt qua toàn bộ, đó là ở cõi Dục chết đi sinh đến cõi trời Phạm Chúng, ở cõi trời Phạm Chúng chết đi sinh đến cõi trời Sắc Cứu Cánh, hoặc là sinh đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ, mà nhập Niết-bàn.

Vượt qua một nửa, đó là ở cõi Dục chết đi sinh đến cõi trời Phạm Chúng, ở cõi trời Phạm Chúng chết đi, đối với tất cả các cõi trời phía trên hoặc là sinh trở lại một nơi, hoặc hai-hoặc ba-hoặc bốn-hoặc năm, cho đến hoặc là chỉ vượt qua một nơi, sinh đến khắp mọi nơi khác, sau đó mới sinh đến cõi trời Sắc Cứu Cánh, hoặc là sinh đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ, mà nhập Niết-bàn.

Chết ở tất cả mọi nơi, đó là ở cõi Dục chết đi sinh đến cõi trời Phạm Chúng, ở cõi trời Phạm Chúng chết đi sinh đến cõi trời Phạm Quang Hành, như vậy lần lượt sinh đến các cõi trên, cho đến sinh vào cõi trời Quảng Quả, từ đó trở lên có hai con đường riêng biệt:

  1. Tiến vào Tịnh Cư.
  2. Tiến vào Vô sắc.

Tiến vào Tịnh Cư, là ở cõi trời Quảng Quả chết đi sinh đến cõi trời Vô Phiền, lần lượt cho đến sinh vào cõi trời Sắc Cứu Cánh mà nhập Niết-bàn.

Tiến vào Vô sắc, là ở cõi trời Quảng Quả chết đi sinh đến Không vô biên xứ, lần lượt cho đến sinh vào Phi tưởng phi phi tưởng xứ, mà nhập Niết-bàn. Như chết ở tất cả mọi nơi có hai con đường riêng biệt, nên biết vượt qua toàn bộ và vượt qua một nửa cũng như vậy.

Hỏi: Những gì là Thượng lưu tiến vào Tịnh Cư, những gì là Thượng lưu tiến vào Vô sắc?

Đáp: Có hai loại Thượng lưu, đó là hành Tỳ-bát-xá-na và hành Xa-ma-tha. Hành Tỳ-bát-xá-na thì tiến vào Tịnh Cư, hành Xa-ma-tha thì tiến vào Vô sắc.

Lại nữa, có hai loại Thượng lưu, đó là vui với Định thù thắng và vui với Sinh thù thắng. Vui với Định thù thắng thì tiến vào Tịnh Cư. Vui với Sinh thù thắng thì tiến vào Vô sắc.

Lại nữa, có hai loại Thượng lưu, đó là vui với Quyết trạch và vui với Tịch tĩnh. Vui với Quyết trạch thì tiến vào Tịnh Cư. Vui với Tịch tĩnh thì tiến vào Vô sắc.

Lại nữa, có hai loại Thượng lưu, đó là Tu xen lẫn và Tu không xen lẫn. Tu xen lẫn thì tiến vào Tịnh Cư. Tu không xen lẫn thì tiến vào Vô sắc.

Vả lại, Thượng lưu chết ở tất cả mọi nơi, có lúc hiển bày nơi đến chứ không phải là nơi đi, có lúc hiển bày nơi đi chứ không phải là nơi đến, có lúc hiển bày nơi đến cũng là hiển bày nơi đi. Có lúc hiển bày nơi đến chứ không phải là nơi đi, đó là sinh đến cõi trời Sắc Cứu Cánh, hoặc là Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Có lúc hiển bày nơi đi chứ không phải là nơi đến, đó là sinh đến cõi trời Phạm Chúng. Có lúc hiển bày nơi đến cũng là hiển bày nơi đi, đó là sinh vào các cõi trung gian. Không phải là hiển bày nơi đến cũng không phải là hiển bày nơi đi, loại này không có.

Hỏi: Như trước nói là người hướng đến Sắc Cứu Cánh, thì trước đó đạt được bốn Tĩnh lự thế tục, sau đó lui sụt trú vào Tĩnh lự thứ nhất; người ấy hướng đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ, thì trước đó cũng đạt được bốn Tĩnh lự thế tục, sau đó lui sụt thì trú vào Tĩnh lự thứ nhất hay không? Đáp: Cũng có. Như trước đó đạt được bốn Tĩnh lự thế tục, sau đó lui sụt trú vào Tĩnh lự thứ nhất, mạng chung sinh đến cõi Phạm Thế, lần lượt chuyển tiếp cho đến sinh vào cõi trời Sắc Cứu Cánh; như vậy cũng có trước đó đạt được bốn Tĩnh lự thế tục-bốn Vô sắc, sau đó lui sụt trú vào Tĩnh lự thứ nhất, mạng chung sinh đến cõi Phạm Thế, lần lượt chuyển tiếp cho đến sinh vào Phi tưởng phi phi tưởng xứ, nhưng không nhất định phải như vậy.

Hỏi: Vì sao không nói người ấy lui sụt Tĩnh lự thứ nhất?

Đáp: Bởi vì không có ai lui sụt Tĩnh lự thứ nhất mà mạng chung, vì vậy không nói đến.

Vả lại, trong này hiển bày về sự sai biệt của Bất hoàn, người ấy lui sụt Tĩnh lự thứ nhất thì không phải là Bất hoàn, vì vậy không nói đến.

Hỏi: Như nói lui sụt trú vào Tĩnh lự thứ nhất, sinh đến cõi trời Phạm Chúng, làm Thượng lưu vượt qua toàn bộ, vượt qua một nửa, chết ở tất cả mọi nơi; người ấy nếu lui sụt trú vào Tĩnh lự thứ hai, sinh đến cõi trời Thiểu Quang, lui sụt trú vào Tĩnh lự thứ ba, sinh đến cõi trời Thiểu Tịnh, lui sụt trú vào Tĩnh lự thứ tư, sinh đến cõi trời Vô Vân…, thì lúc ấy cũng có thể làm Thượng lưu vượt qua toàn bộ, vượt qua một nửa, chết ở tất cả mọi nơi hay không?

Đáp: Có người nói: Không có thể, bởi vì sinh đến cõi Phạm Thế, không có thiếu hụt đối với nơi sinh phù hợp của Bất hoàn ở cõi trên, dựa vào đó mà kiến lập vượt qua toàn bộ, vượt qua một nửa, chết ở tất cả mọi nơi. Nếu lui sụt mà sinh vào nơi của địa trên thì sẽ có thiếu hụt, cho nên không dựa vào đó để kiến lập vượt qua toàn bộ…

Có người nói: Lúc ấy cũng có thể gọi là vượt qua một nửa, bởi vì vượt qua phần ít của cõi trung gian.

Có người nói: Cũng có thể gọi là đầy đủ ba loại. Người ấy nói bởi vì từ cõi Dục chết đi hễ sinh vào nơi nào, thì đối với nơi sinh phù hợp ở cõi trên ấy, cũng có thể thi thiết vượt qua toàn bộ, vượt qua một nửa, chết ở tất cả mọi nơi.

Hỏi: Nếu người Bất hoàn từ cõi Dục chết đi sinh đến cõi Vô sắc, thì cũng có thể làm Thượng lưu vượt qua toàn bộ… hay không?

Đáp: Có người nói: Không có thể.

Có người nói: Lúc ấy cũng có thể gọi là vượt qua một nửa.

Có người nói: Lúc ấy cũng gọi là đầy đủ ba loại. Trong này, nguyên cớ đều giải thích như trước.

Hỏi: Như Thượng lưu hướng đến Sắc Cứu Cánh, nhất định trước đó đạt được bốn Tĩnh lự, lui sụt sinh đến cõi Phạm Thế, sau đó mới có thể hướng đến cõi trời Sắc Cứu Cánh; lúc ấy Thượng lưu hướng đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ, cũng nhất định trước đó đạt được bốn Vô sắc, lui sụt sinh đến cõi Phạm Thế, sau đó mới có thể hướng đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ chăng?

Đáp: Không nhất định phải như vậy, bởi vì sinh ở cõi Sắc không có thể bắt đầu khởi lên tu xen lẫn Tĩnh lự, phải là lúc ở cõi Dục đã từng khởi lên, nay tiếp tục tu trở lại thì mới có thể hướng đến Sắc Cứu Cánh. Sinh ở Vô sắc thì càng không có nghiệp loại thù thắng như vậy, phải là ở cõi Dục đã từng khởi lên, nay tiếp tục tu trở lại, sau đó mới có thể sinh đến cõi Hữu Đảnh. Vì vậy, người hướng đến cõi Hữu Đảnh, nếu trước đó đạt được Vô sắc mà lui sụt, hoặc là trước đó không đạt được, lúc ấy ở cõi Dục chết đi, sinh đến cõi trời Phạm Chúng, thì đều có thể hướng đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ.

Hỏi: Đã nói đến Thượng lưu, là chỉ riêng Tín thắng giải, hay là cũng có Kiến chí?

Đáp: Nếu không lui sụt Định của địa trên mà Thượng lưu, thì đây là bao gồm hai loại; nếu lui sụt Định của địa trên mà Thượng lưu, thì chỉ riêng Tín thắng giải.

Lại nữa, ngay lúc lui sụt Định của địa trên mà Thượng lưu, thì cũng bao gồm hai loại.

Hỏi: Kiến chí ấy vì sao lui sụt? Đáp: Bởi vì Kiến chí ấy không phải là tánh vốn có, chỉ ở sau lúc lui sụt trong thời gian chưa mạng chung, từ Tín thắng giải luyện căn làm Kiến chí, sau đó mạng chung mà sinh lên cõi trên làm Thượng lưu.

Hỏi: Như cõi Sắc có Trung bát Niết-bàn, cõi Dục cũng có chăng?

Đáp: Không có.

Hỏi: Vì sao?

Đáp: Bởi vì cõi Dục là cõi không nhất định, không phải là địa của tu, không phải là địa của lìa nhiễm, có nhiều những sai lầm, nhiều tai họa bất ngờ làm cho trở ngại, lúc trú trong Bổn hữu hãy còn khó đạt được quả, huống là trú trong thân mong manh yếu kém của Trung hữu hay sao? Cõi Sắc thì không như vậy, cho nên trú vào Trung hữu mà có thể nhập Niết-bàn.

Lại nữa, nếu trú vào Trung hữu của cõi Dục mà nhập Niết-bàn, thì dựa vào Trung hữu có thể vượt qua ba cõi; nhưng không có ai có thể vượt qua ba cõi nhờ vào thân Trung hữu.

Lại nữa, nếu trú vào Trung hữu của cõi Dục mà nhập Niết-bàn, thì có thể đoạn dứt phiền não của ba cõi trong thân Trung hữu ; nhưng không có ai có thể đoạn dứt phiền não của ba cõi ở trong thân Trung hữu .

Lại nữa, nếu trú vào Trung hữu của cõi Dục mà nhập Niết-bàn, thì có thể đoạn dứt hai loại phiền não bất thiện-vô ký trong thân Trung hữu; nhưng không có ai có thể đoạn dứt hai loại phiền não bất thiện-vô ký ở trong thân Trung hữu.

Lại nữa, nếu trú vào Trung hữu của cõi Dục mà nhập Niết-bàn, thì có thể chứng được hoặc là hai hay là ba quả Sa-môn trong thân Trung hữu; nhưng không có ai có thể chứng được hoặc là hai hay là ba quả Samôn trong thân Trung hữu. Bởi vì nghĩa này, cho nên chỉ riêng cõi Sắc là có Trung bát Niết-bàn, mà cõi Dục thì không có.

Lại nữa, Trung bát Niết-bàn thì nhất định ở đời trước đã lìa nhiễm của cõi Dục, đã lìa nhiễm của cõi Dục thì chắc chắn không khởi lên Trung hữu của cõi Dục, cho nên ở cõi Dục không có Trung bát Niếtbàn.

Lại nữa, phiền não-nghiệp của cõi Dục nặng nề, không phải là ở trong thân mong manh yếu kém của Trung hữu mà có thể đoạn trừ.

Lại nữa, Trung hữu không phải là sở y đạt được quả Bất hoàn, mà chỉ là sở y đạt được quả A-la-hán.

Lại nữa, Trung hữu của cõi Dục chắc chắn không có thể khởi lên Thánh đạo hiện rõ trước mắt, bởi vì yếu kém; cõi Sắc thì không như vậy. Bởi vì nghĩa này, cho nên cõi Dục không có Trung bát Niết-bàn.

Lại nữa, Trung hữu mong manh yếu kém chỉ có thể khởi lên Thánh đạo hiện rõ trước mắt ở địa Căn bản của mình, chứ không phải là Vị chí…, bởi vì khó khởi lên. Nếu Trung hữu của cõi Dục mà nhập Niết-bàn, thì cùng với điều này trái ngược nhau, cho nên chắc chắn không có.

Lại nữa, cõi Dục có phiền não tương ưng với nghịch-thuận, có phiền não của sáu cửa ngõ bên ngoài, có phiền não có thể dẫn đến hai quả, có phiền não tương ưng với không có Tàm-không có Qúy, và có các tùy phiền não với đủ loại hỗn tạp như Phẫn-Hận…, khó phá bỏ-khó đoạn trừ-khó vượt qua-khó xa rời. Trú trong Bổn hữu dấy lên công dụng to lớn, mà hãy còn khó đoạn trừ, huống là ở phần vị Trung hữu? Vì vậy không có Trung bát Niết-bàn ở cõi Dục.

Lại nữa, nếu như đã từng tu đầy đủ chín phẩm đối trị thì mới có thể nhập Niết-bàn ở phần vị Trung hữu, Trung hữu của cõi Dục chắc chắn chưa tu đầy đủ chín phẩm đối trị, cho nên Trung hữu ấy không nhập Niết-bàn.

Hỏi: Như ở cõi Dục chết đi, nhận lấy Trung hữu của cõi Sắc, có thể nhập Niết-bàn; như vậy từ cõi Sắc chết đi, nhận lấy Trung hữu của cõi Sắc, cũng nhập Niết-bàn hay không?

Đáp: Không. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì thân ấy ở cõi Dục nhiều khổ đau-nhiều chướng ngại, rất nhiều tai họa bất ngờ đáng chán ngán, sinh ra chán ngán hết sức, lúc đã rời bỏ rồi khởi lên Trung hữu của cõi Sắc hiện rõ ở trước mắt, ở nơi ấy nhận lấy dị thục trải qua thời gian dài, cũng sinh ra chán ngán lo buồn liền nhập Niết-bàn. Cõi Sắc không có tai họa bất ngờ, sự việc hết sức đáng chán ngán, làm cho sinh ra chán ngán lo buồn như vậy, như đối với Bổn hữu có duyên ngăn ngại cho nên không nhập Niết-bàn, nay Trung hữu cũng như vậy. Vì vậy từ nơi ấy chết đi khởi lên Trung hữu không nhập Niết-bàn.

Lại nữa, nếu từ cõi Sắc chết đi, ngay Trung hữu ấy mà nhập Niếtbàn, lẽ ra cũng gọi là Thượng lưu, thì năm loại Bất hoàn sẽ trở thành tạp loạn, đó là năm loại ấy không có nhân duyên sai biệt. Chỉ riêng ở cõi Dục chết đi, trú vào thân Trung hữu mà nhập Niết-bàn, thì gọi là Trung bát Niết-bàn, chứ không phải là ở cõi Sắc chết đi. Vả lại, không có nhân duyên từ cõi ấy hướng lên phía trên, cho nên không gọi là Thượng lưu. Do sai lầm này, cho nên Trung hữu của cõi ấy không nhập Niết-bàn.

Hỏi: Nếu từ cõi Dục chết đi, khởi lên Trung hữu của cõi Sắc, bởi vì chán ngán cho nên được nhập Niết-bàn, thì vì sao không ngay nơi Bổn hữu của cõi Dục được nhập Niết-bàn, bởi vì đã từng chán ngán?

Đáp: Bởi vì lúc ấy trú trong Bổn hữu đạt được quả Bất hoàn rồi khởi lên quả A-la-hán, gia hạnh trọn vẹn vào lúc Thánh đạo chưa khởi lên thì đã mạng chung, nhờ vào thế lực trước đây cho nên có thể ở phần vị Trung hữu, tiến tới đoạn kiết còn sót lại mà nhập Niết-bàn.

Hỏi: Lúc ấy gia hạnh trọn vẹn vì sao không khởi lên Thánh đạo mà liền mạng chung?

Đáp: Bởi vì lúc ấy hoặc là tuổi thọ đã hết, hoặc là nghiệp đã hết, hoặc là phước đã hết, hoặc là do người khác làm hại, hoặc là vì lợi ích cho người khác, hoặc là trái ý gặp phải duyên xấu, không kịp khởi lên Thánh đạo mà đã mạng chung.

Có người nói: Lúc ấy đạt được quả Bất hoàn rồi, về sau tu gia hạnh lúc sắp trọn vẹn thì gặp phải bệnh tật kéo dài, hoặc là thiếu hụt vật dụng cung cấp, hoặc là gặp phải nhân duyên về các tai họa của tính mạng, chưa có thể diệt hết phiền não, từ đó lần lượt chuyển tiếp cho đến mạng chung. Bởi vì đã đạt được Uẩn mới thuộc Trung hữu của cõi Sắc, nhờ vào lực tăng thượng của đại chủng và các căn, lập tức có thể dẫn dắt khởi lên Thánh đạo hiện rõ trước mắt, tiến tới đoạn kiết còn sót lại mà nhập Niết-bàn.

Hỏi: Nếu từ cõi Dục chết đi, sinh đến cõi Vô sắc, thì cũng có Sinh bát Niết-bàn… hay không?

Đáp: Có, bởi vì từ cõi Dục chết đi, sinh đến hai cõi trên, không tiếp tục trải qua Sinh bát Niết-bàn, hễ ở nơi nào thì trong đời sống ở đó, đều có thể kiến lập ba loại là Sinh bát Niết-bàn…, cho nên hai đời trở lên, hễ ở nơi nào thì đều có thể kiến lập làm Thượng lưu.

Hỏi: Thượng lưu vui với Tuệ không đến cõi Sắc Cứu Cánh, Thượng lưu vui với Định không đến cõi Hữu Đảnh, nhập Niết-bàn ở các cõi dưới thì cũng có thể gọi là hai loại Thượng lưu vui với Tuệ-vui với Định hay không?

Đáp: Lúc ấy cũng tùy loại có được tên gọi của hai loại, nhưng nói vui với Tuệ đến cõi Sắc Cứu Cánh, vui với Định đến cõi Hữu Đảnh, là dựa vào nơi cuối cùng mà nói, bởi vì vượt quá nơi này lại không có nơi nào đi đến. Như người Dự lưu, hoặc gọi là qua lại bảy lần cuối cùng trong sinh tử (cực thất phản hữu), mà ở trong thời gian ấy nhập Niếtbàn, thì cũng có được tên gọi này; loại ấy cũng như vậy.

Hỏi: Vì sao Thánh giả đối với mỗi một nơi sinh của hai cõi trên, chỉ nhận lấy một đời, ở trong cõi Dục thì không như vậy?

Đáp: Bởi vì cõi Dục là cõi không nhất định, là địa của tạp loạn, các phiền não-nghiệp lấn ép nhau, xen tạp nhau, không có phạm vicách thức chuẩn xác, khiến cho Thánh giả từ địa dưới sinh lên địa trên, từ địa trên lại sinh xuống địa dưới, hoặc là ở một nơi mà nhận chịu nhiều lần sinh; cõi Sắc-Vô sắc là cõi nhất định, không phải là địa của tạp loạn, các phiền não-nghiệp không lấn ép-xen tạp nhau, có phạm vi-cách thức chuẩn xác, khiến cho Thánh giả chỉ sinh lên địa trên chứ không sinh xuống địa dưới, mỗi nơi chỉ một lần sinh.

Lại nữa, Thánh giả sinh ở cõi Dục không gọi là Bất hoàn, mà gọi là qua lại bảy lần cuối cùng trong sinh tử…, bởi vì sinh ở địa trên-địa dưới cũng là sinh trở lại một nơi; Thánh giả sinh ở cõi trên gọi là Bất hoàn, bởi vì chỉ sinh lên địa trên cũng không sinh trở lại. Dựa vào nghĩa này, cho nên nghĩa về Bất hoàn đầy đủ, bởi vì hãy còn không sinh vào nơi ban đầu, huống gì có sinh trở lại địa dưới hay sao?

Lại nữa, Bổ-đặc-già-la Bất hoàn nói rộng ra có vô lượng loại, nay tạm thời phân biệt về năm loại đi đến cõi Sắc. Nên biết đây là:

Dựa vào Cõi để kiến lập cho nên nói là một.

Dựa vào Sinh-Bất sinh để kiến lập cho nên nói là hai.

Dựa vào Phần vị sai biệt để kiến lập cho nên nói là năm, đó là Trung bát Niết-bàn cho đến Thượng lưu vãng Sắc Cứu Cánh, tức là đã nói ở đây.

Dựa vào Căn để kiến lập cho nên nói là mười lăm, đó là căn HạTrung-Thượng, đều có năm. Dựa vào Địa để kiến lập cho nên nói là hai mươi, đó là Tĩnh lự thứ nhất cho đến Tĩnh lự thứ tư, đều có năm.

Dựa vào Chủng tánh để kiến lập cho nên nói là ba mươi, đó là chủng tánh Thối pháp cho đến chủng tánh Bất động pháp, đều có năm.

Dựa vào Xứ để kiến lập cho nên nói là tám mươi, đó là cõi trời Phạm Chúng cho đến cõi trời Sắc Cứu Cánh, đều có năm.

Dựa vào Căn của Chủng tánh để kiến lập cho nên nói là chín mươi, đó là căn Hạ-Trung-Thượng của chủng tánh Thối pháp đều có năm, cho đến chủng tánh Bất động pháp cũng như vậy.

Dựa vào Chủng tánh của Địa để kiến lập cho nên nói là một trăm hai mươi, đó là sáu chủng tánh của Tĩnh lự thứ nhất đều có năm, cho đến Tĩnh lự thứ tư cũng như vậy.

Dựa vào Căn thuộc Chủng tánh của Địa để kiến lập cho nên nói là ba trăm sáu mươi, đó là ba căn thuộc sáu chủng tánh của Tĩnh lự thứ nhất đều có năm, cho đến Tĩnh lự thứ tư cũng vậy. Dựa vào Chủng tánh của Xứ để kiến lập cho nên nói là bốn trăm tám mươi, đó là sáu chủng tánh của cõi trời Phạm Chúng đều có năm, cho đến cõi trời Sắc Cứu Cánh cũng như vậy.

Dựa vào Căn thuộc Chủng tánh của Xứ để kiến lập cho nên nói là một ngàn bốn trăm bốn mươi, đó là ba căn thuộc sáu chủng tánh của cõi trời Phạm Chúng đều có năm, cho đến cõi trời Sắc Cứu Cánh cũng như vậy.

Dựa vào Căn thuộc Chủng tánh của Xứ lìa nhiễm để kiến lập cho nên nói là một vạn hai ngàn chín trăm sáu mươi, đó là một ngàn bốn trăm bốn mươi trước đây đều có chín loại lìa nhiễm sai biệt.

Lại nữa, một Trung bát Niết-bàn kiến lập sai biệt cũng có nhiều loại. Đó là:

Cõi cho nên nói là một. Căn cho nên nói là ba.

Địa cho nên nói là bốn.

Chủng tánh cho nên nói là sáu.

Lìa nhiễm cho nên nói là chín.

Xứ cho nên nói là mười sáu.

Căn của Chủng tánh cho nên nói là mười tám.

Chủng tánh của Địa cho nên nói là hai mươi bốn.

Lìa nhiễm của Địa cho nên nói là ba mươi sáu.

Căn thuộc Chủng tánh của Địa cho nên nói là bảy mươi hai.

Chủng tánh của Xứ cho nên nói là chín mươi sáu.

Căn thuộc Lìa nhiễm của Địa cho nên nói là một trăm lẻ tám.

Lìa nhiễm của Xứ cho nên nói là một trăm bốn mươi bốn.

Căn thuộc Lìa nhiễm của Chủng tánh cho nên nói là một trăm sáu mươi hai.

Chủng tánh thuộc Lìa nhiễm của Địa cho nên nói là hai trăm mười sáu.

Căn thuộc Chủng tánh của Xứ cho nên nói là hai trăm tám mươi tám.

Căn thuộc Chủng tánh về Lìa nhiễm của Địa cho nên nói là sáu trăm bốn mươi tám.

Lìa nhiễm thuộc Chủng tánh của Xứ cho nên nói là tám trăm sáu mươi bốn.

Căn về Lìa nhiễm thuộc Chủng tánh của Xứ nói là hai ngàn năm trăm chín mươi hai.

Như Trung bát Niết-bàn có bao nhiêu, cho đến Thượng lưu vãng Sắc Cứu Cánh cũng như vậy. Như vậy tổng cọng có một vạn hai ngàn chín trăm sáu mươi Bất hoàn khác nhau. Như kiến lập sai biệt về Bất hoàn đi đến cõi Sắc, như vậy kiến lập sai biệt về Bất hoàn đi đến cõi Vô sắc tùy theo thích hợp cũng như vậy.

******

Như trong kinh nói: “Đức Phật bảo với Tỳ kheo: Có nơi đến của bảy loại Thiện sĩ (thất thiện sĩ thú), có thể tiến tới đoạn kiết còn sót lại mà được nhập Niết-bàn.”

Hỏi: Vì sao kiến lập nơi đến (thú) của bảy loại Thiện sĩ? Là bởi vì quả Sa-môn thuộc về cõi, hay là bởi vì xứ sở thuộc về địa, hay là bởi vì phiền não thuộc về căn, mà kiến lập chăng? Giả sử như vậy thì có gì sai? Nếu bởi vì quả Sa-môn thuộc về cõi mà kiến lập thì chỉ cần nói là một, đó là Bất hoàn đi đến cõi Sắc. Nếu bởi vì xứ sở thuộc về địa mà kiến lập thì chỉ cần nói là bốn hoặc là nói mười sáu. Nếu bởi vì phiền não thuộc về căn mà kiến lập thì nên nói là có chín, bởi vì phiền não đều có chín phẩm.

Đáp: Tất cả đều không dùng ba duyên này để kiến lập, chỉ dùng Hành phía trên thuộc phẩm Sinh-Bất sinh mà kiến lập bảy loại. Nếu vì vậy cho nên kiến lập phẩm Sinh thứ nhất, thì vì vậy cho nên kiến lập phẩm Bất sinh thứ nhất. Nếu vì vậy cho nên kiến lập phẩm Sinh thứ hai, thì vì vậy cho nên kiến lập phẩm Bất sinh thứ hai. Nếu vì vậy cho nên kiến lập phẩm Sinh thứ ba, thì vì vậy cho nên kiến lập phẩm Bất sinh thứ ba. Lại dùng nghĩa thù thắng của Hành phía trên kiến lập Thượng lưu làm một loại, vì vậy kiến lập nơi đến của bảy loại Thiện sĩ. Đó là Sinh thì hoặc là có sự chuyên cần về Tu đạo, có nhanh chóng tiến thêm về đạo; hoặc là có sự chuyên cần về Tu đạo, không có nhanh chóng tiến thêm về đạo; hoặc là không có sự chuyên cần về Tu đạo, không có nhanh chóng tiến thêm về đạo. Đầu tiên làm loại thứ nhất, tiếp đến làm loại thứ hai, cuối cùng làm loại thứ ba. Như Sinh có ba loại, Bất sinh cũng như vậy. Lại dùng nghĩa thù thắng của Hành phía trên kiến lập Thượng lưu làm một loại, vì vậy kiến lập nơi đến của bảy loại Thiện sĩ.

Lại nữa, Sinh thì có căn thuộc bậc Thượng, có căn thuộc bậc Trung, có căn thuộc bậc Hạ, như thứ tự làm ba loại. Như Sinh có ba loại, Bất sinh cũng như vậy, còn lại nói như trước. Phiền não sai biệt cùng với điều này trái ngược nhau, nói cũng như vậy.

Lại nữa, Sinh thì có đạo thuộc phẩm Thượng, có đạo thuộc phẩm Trung, có đạo thuộc phẩm Hạ, như thứ tự làm ba loại. Như Sinh có ba loại, Bất sinh cũng như vậy, còn lại nói như trước.

Lại nữa, Sinh thì có nghiệp thuộc phẩm Thượng, có nghiệp thuộc phẩm Trung, có nghiệp thuộc phẩm Hạ, như thứ tự làm ba loại. Đây là dựa vào nghiệp vô lậu mà nói. Nếu dựa vào nghiệp hữu lậu mà nói, thì cuối cùng làm loại thứ nhất, tiếp đến làm loại thứ hai, đầu tiên làm loại thứ ba. Như Sinh có ba loại, Bất sinh cũng như vậy, còn lại nói như trước.

Có người nói: Sinh thì có Tinh tiến tăng thượng cũng đạt được Tuệ thù thắng, có Tinh tiến tăng thượng mà không đạt được Tuệ thù thắng, có đạt được Tuệ thù thắng mà không phải là Tinh tiến tăng thượng, như thứ tự làm ba loại. Như Sinh có ba loại, Bất sinh cũng như vậy, còn lại nói như trước.

Có người nói: Sinh thì có gia hạnh thường xuyên cũng gia hạnh cùng một lúc, có gia hạnh thường xuyên mà không gia hạnh cùng một lúc, có gia hạnh cùng một lúc mà không gia hạnh thường xuyên, như thứ tự làm ba loại. Như Sinh có ba loại, Bất sinh cũng như vậy, còn lại nói như trước.

Có người nói: Sinh thì có nhận thấy lỗi lầm tai họa thuộc phẩm Thượng đối với sinh tử, có nhận thấy lỗi lầm tai họa thuộc phẩm Trung đối với sinh tử, có nhận thấy lỗi lầm tai họa thuộc phẩm Hạ đối với sinh tử, như thứ tự làm ba loại. Như Sinh có ba loại, Bất sinh cũng như vậy, còn lại nói như trước. Thực hiện công đức-thắng giải sai biệt đối với Niết-bàn, nói cũng như vậy.

Có người nói: Sinh thì hoặc là có Xa-ma-tha và Tỳ-bát-xá-na thuộc phẩm Thượng, hoặc có thuộc phẩm Trung, hoặc có thuộc phẩm Hạ, như thứ tự làm ba loại. Như Sinh có ba loại, Bất sinh cũng như vậy, còn lại nói như trước. Căn thiện sai biệt khác, nói cũng như vậy.

Có người nói: Đức Thế Tôn chỉ rõ thuận theo bảy phần vị-bảy chủng tánh-bảy phương pháp-bảy tầng bậc-bảy dấu tích-bảy con đường, mà vượt qua kiết do Tu mà đoạn, khó đoạn trừ-khó phá hủy của Phi tưởng phi phi tưởng xứ, đạt được quả A-la-hán, cho nên nói về nơi đến của bảy loại Thiện sĩ như vậy.

Hỏi: Như Sinh-Bất sinh đều có ba loại, Thượng lưu cũng như vậy, đó là vượt qua toàn bộ, vượt qua một nửa và chết ở tất cả mọi nơi, vì sao chỉ nói một loại?

Đáp: Sinh-Bất sinh đều là một loại có nối tiếp nhau (tương tục), ở trong phần vị sai biệt khó nhận biết, muốn làm cho nhận biết cho nên đều nói đến ba loại; ba loại Thượng lưu thì số lượng về Sinh tự nhiên phân rõ sai biệt dễ dàng nhận biết, vì thế cho nên chỉ thuận theo nghĩa thù thắng của Hành phía trên, hợp lại nói là một loại.

Lại nữa, Sinh và Bất sinh cùng một kỳ hạn, thời gian ngắn ngủi sai biệt, nghĩa ít phạm vi như nhau, dễ dàng nhận biết cho nên phân làm ba loại; Thượng lưu thì thời gian lâu dài sai biệt, nhiều loại phạm vi như nhau, khó phân biệt được cho nên hợp lại làm một loại.

Lại nữa, Sinh và Bất sinh cũng có nghĩa như nhau, Thượng lưu cũng có nghĩa riêng biệt, bởi vì muốn dùng hai văn để hiển bày lẫn nhau, cho nên đưa ra cách nói như vậy.

Lại nữa, tướng nơi đến của Thiện sĩ thuộc Sinh và Bất sinh hiện rõ trước mắt dễ dàng sáng tỏ, bởi vì họ nhanh chóng hướng về nhập Niếtbàn, cho nên đều phân làm ba loại; tướng nơi đến của Thiện sĩ thuộc Thượng lưu sâu xa kín đáo khó nhận biết được, bởi vì họ vẫn còn trải qua nhiều sinh tử, cho nên chỉ hợp lại nói là một.

Hỏi: Vì sao trong kinh dùng ba thí dụ để hiển bày về ba loại Bất sinh, đối với ba loại về Sinh thì không như vậy?

Đáp: Như dùng ba thí dụ để hiển bày về ba loại Bất sinh, nên biết là cũng đã hiển bày về ba loại Sinh, vì thế cho nên trước đây nói: Nếu vì vậy cho nên kiến lập phẩm Sinh thứ nhất, thì vì vậy cho nên kiến lập phẩm Bất sinh thứ nhất, cho đến nói rộng ra.

Lại nữa, bởi vì lúc người Bất sinh hướng đến nơi sinh thì giống như người trải qua chặng đường, trong đó có người đi chưa xa thì nhập Niết-bàn, có người đi hơi xa mà nhập Niết-bàn, có người đi đã xa sắp đến nơi sinh mà nhập Niết-bàn. Vì thế cho nên Đức Thế Tôn dùng ba thí dụ để hiển bày ba loại trong Sinh đều đến nơi sinh, lại không có nơi đến xa-gần sai biệt, cho nên không có thí dụ riêng biệt.

Lại nữa, ba loại Bất sinh vi tế không hiện bày rõ ràng, khó hiểukhó biết, cho nên dùng thí dụ để hiển bày; ba loại trong Sinh hiện bày thô thiển, dễ dàng nhận biết, cho nên không dùng thí dụ để hiển bày.

Lại nữa, ba loại Bất sinh do Cõi thâu nhiếp chứ không phải là Nẽo, tướng Sinh thâu nhiếp chứ không phải là tướng Nẽo, bởi vì không đầy đủ trọn vẹn, cho nên cho nên dùng thí dụ để hiển bày; ba loại trong Sinh thì không như vậy, cho nên không dùng thí dụ để hiển bày.

Lại nữa, Đức Phật quán sát ở vị lai có người chấp trước lạ lùng, ở trong Trung hữu mà sinh ra phỉ báng, như Luận sư Phân Biệt…, bởi vì Đức Phật cần phải quyết định về nghĩa của Trung hữu cho nên dùng ba thí dụ để hiển bày về sự sai biệt của Diệt; đối với Sinh hữu…, không có sự phỉ báng này, cho nên không cần phải nói thí dụ đối với ba loại trong Sinh.

Lại nữa, Trung bát Niết-bàn đối với Sinh bát Niết-bàn…, có ba điều hơn hẳn:

  1. Nhận lấy khổ ít hơn.
  2. Nhanh chóng dập tắt lửa phiền não.
  3. Nhanh chóng rời bỏ gánh nặng của Uẩn.

Vì vậy dùng ba thí dụ để hiển bày, Sinh… thì không như vậy cho nên không có thí dụ hiển bày.

Hỏi: Trung bát Niết-bàn khởi lên Thánh đạo của địa nào, tiến tới đoạn kiết còn sót lại, đạt được quả A-la-hán?

Đáp: Khởi lên Thánh đạo của địa mình, nghĩa là nếu trú trong Trung hữu của địa Tĩnh lự thứ nhất mà nhập Niết-bàn, thì lúc ấy khởi lên Thánh đạo của địa Tĩnh lự thứ nhất; cho đến nếu trú trong Trung hữu của địa Tĩnh lự thứ tư mà nhập Niết-bàn, thì lúc ấy khởi lên Thánh đạo của địa Tĩnh lự thứ tư.

Hỏi: Lúc ấy đạt được quả rồi cũng có người khởi lên Thánh đạo của Định Vị chí và Tĩnh lự trung gian chăng?

Đáp: Có người nói: Cũng có người khởi lên, nghĩa là nếu trước đó dựa vào địa ấy đạt được quả Bất hoàn, thì nay cũng có thể khởi lên.

Nói như vậy thì nên nói là không khởi lên. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì pháp vốn như vậy.

Lại nữa, bởi vì thời gian ngắn ngủi cho nên lúc ấy đạt được quả rồi nhanh chóng nhập Niết-bàn, đâu có thể trở lại khởi lên đạo vô lậu của địa khác.

Lại nữa, Trung hữu chỉ tùy thuận với Thánh đạo của địa Căn bản chứ không phải là địa Cận phần, bởi vì Thánh đạo của địa Cận phần do Khổ-Đạo thâu nhiếp, cho nên khó hiện rõ trước mắt.

Lại nữa, nếu địa có Định mà cũng có Sinh thì trú trong Trung hữu khởi lên Thánh đạo của địa ấy, Định Vị chí có Định mà không có Sinh, Tĩnh lự trung gian tuy cũng có Sinh mà là dị dinh chứ không phải là Thánh giả, bốn Tĩnh lự Căn bản có Định và có Sinh cho nên trú trong Trung hữu mà khởi lên Thánh đạo của địa ấy.

Hỏi: Lúc ấy vì sao không khởi lên Thánh đạo của Vô sắc?

Đáp: Bởi vì ban đầu thì chưa đạt được, về sau thì không còn tác dụng.

Lại nữa, bởi vì lúc ấy do địa khác thâu nhiếp, cho nên khó hiện rõ trước mắt.

Lại nữa, bởi vì lúc ấy do Khổ-Đạo thâu nhiếp, cho nên không muốn khởi lên.

Hỏi: Vì sao không nói Dự lưu và Nhất lai làm nơi đến của Thiện sĩ?

Đáp: Cần phải nói mà không nói đến thì nên biết là nghĩa này có khác.

Có người nói: Trong này, Đức Thế Tôn dùng nơi đến của bảy loại Thiện sĩ để khen ngợi người con giữa. Hoặc là có nơi khen nợi người con trưởng, như bài tụng nói:

“A-la-hán vô cùng vui sướng, bởi vì tâm không có tham ái, và đã đoạn trừ tâm ngã mạn, vĩnh viễn không còn lưới si mê.”

Hoặc là có nơi khen nợi người con thơ, như kinh Trì Dụ nói rộng. Nay ở đây cũng bởi vì khen ngợi người con giữa, cho nên không nói đến Dự lưu và Nhất lai.

Có người nói: Chính vì sự sai biệt của Dự lưu và Nhất lai, cho nên Đức Thế Tôn nói về nơi đến của bảy loại Thiện sĩ này, nghĩa là Dự lưu và Nhất lai tuy có được tên gọi là Thiện sĩ, mà như trong kinh nói: “Thế nào là Thiện sĩ? Đó là nếu thành tựu Chánh kiến Hữu học, cho đến Chánh Định. Thế nào là Thiện sĩ thù thắng? Đó là nếu thành tựu Chánh kiến Vô học, cho đến Chánh Định.”

Như vậy hàng Dự lưu và Nhất lai không được gọi là nơi đến của Thiện sĩ, bởi vì họ hãy còn cách xa chứ không phải là có thể tiếp cận nơi đến của Thiện sĩ thù thắng, chỉ riêng hàng Bất hoàn gọi là Thiện sĩ mà cũng gọi là nơi đến của Thiện sĩ, bởi vì họ là Thiện sĩ, và có thể tiếp cận nơi đến của Thiện sĩ thù thắng. Bởi vì nghĩa này, cho nên Dự lưu và Nhất lai không phải là nơi đến của Thiện sĩ.

Có người nói: Trong phần vị Hữu học, nếu đã vượt qua cõi, đã đạt được quả thì thiết lập nơi đến của Thiện sĩ; Dự lưu và Nhất lai tuy đã đạt được quả mà chưa vượt qua cõi.

Có người nói: Trong phần vị Hữu học, nếu đã vượt qua cõi, vĩnh viễn đoạn trừ nghiệp-phiền não bất thiện thì thiết lập nơi đến của Thiện sĩ; Dự lưu và Nhất lai thì cả hai đều không như vậy.

Có người nói: Trong phần vị Hữu học, nếu đã đạt được quả và vĩnh viễn đoạn trừ nghiệp-phiền não bất thiện thì thiết lập nơi đến của Thiện sĩ; Dự lưu và Nhất lai thì không có thể như vậy, cho nên không thiết lập nơi đến của Thiện sĩ.

Như nghiệp-phiền não bất thiện, như vậy nghiệp-phiền não có dị thục, không có Tàm-không có Quý tương ưng với hai quả, cũng như vậy.

Có người nói: Trong phần vị Hữu học, nếu đã vượt qua cõi, và vĩnh viễn đoạn trừ năm kiết thuận phần dưới thì thiết lập nơi đến của Thiện sĩ; Dự lưu và Nhất lai thì không như vậy.

Có người nói: Trong phần vị Hữu học, nếu đã đạt được quả, và vĩnh viễn đoạn trừ năm kiết thuận phần dưới thì thiết lập nơi đến của Thiện sĩ; Dự lưu và Nhất lai thì không như vậy.

Có người nói: Trong phần vị Hữu học, nếu đã vĩnh viễn đoạn trừ pháp cùng có không phải là Thiện sĩ thì thiết lập nơi đến của Thiện sĩ. Những gì gọi là pháp cùng có không phải là Thiện sĩ? Đó là thích đời sống tại gia, yêu thương lưu luyến vợ con, tham đắm đồ nằm-áo quầnăn uống, thích mang các loại chuỗi ngọc-vòng hoa, và thoa ướp các loại hương thơm để trang điểm thân mình; tích trữ tất cả tiền bạc đồ vật bất tịnh, nghĩa là vàng bạc châu báu, kho tàng-ruộng đất nhà cửa, tôi tớ nô lệ-các loài voi ngựa, và bởi vì tâm nhiễm ô vuốt ve thân hình bất tịnh do xương thịt dơ bẩn tập hợp mà sinh ý tưởng là thanh tịnh đắm theo tập khí tham dục. Hoặc có lúc nổi giận khởi lên các nghiệp làm não hại, gây khổ sở cho các hữu tình… Dự lưu và Nhất lai hãy còn có điều này, cho nên không nói ở trong nơi đến của Thiện sĩ.

Có người nói: Ở phần vị Hữu học, nếu không trở lại tiến vào ngục tù tối tăm trong thai tạng của mẹ, ở giữa Sinh tạng-Thục tạng nhận chịu các loại bất tịnh mà làm thân hình, thì thiết lập nơi đến của Thiện sĩ; Dự lưu và Nhất lai hãy còn có điều này, cho nên không thiết lập nơi đến của bảy loại Thiện sĩ.

Tôn giả Diệu Âm đưa ra cách nói như vậy: “Nếu như Học đã đoạn trừ dục tham-sân nhuế, không vào thai mẹ nhận chịu nỗi khổ bức bách chèn ép, thì thiết lập nơi đến của Thiện sĩ; Dự lưu và Nhất lai thì không như vậy.”

Có người nói: Nếu như Học không bị cảnh giới thuận-nghịch làm cho tâm rối loạn, thì thiết lập nơi đến của Thiện sĩ; Dự lưu và Nhất lai thì không như vậy.

Có người nói: Nếu hướng đến sinh lên phía trên không lui sụt trở lại, thì thiết lập nơi đến của Thiện sĩ; Dự lưu và Nhất lai thì không như vậy.

Có người nói: Nếu như Học đã đạt được tu xen lẫn Tĩnh lự, tuy lui sụt mà không mất đi Tĩnh lự, thì thiết lập nơi đến của Thiện sĩ; Dự lưu và Nhất lai thì không như vậy.

Có người nói: Nếu như Học chỉ thực hành pháp của Thiện sĩ, không thực hành pháp không phải Thiện sĩ, thì thiết lập nơi đến của Thiện sĩ; Dự lưu và Nhất lai cũng thực hành pháp không phải Thiện sĩ. Bởi vì nghĩa như vậy, cho nên Dự lưu-Nhất lai không thiết lập nơi đến của Thiện sĩ.

Hỏi: Bất hoàn đi đến cõi Vô sắc có năm điều hơn hẳn so với Bất hoàn đi đến cõi Sắc, đó là cõi hơn hẳn, địa hơn hẳn, đoạn phiền não hơn hẳn, giảm bớt uẩn hơn hẳn và Tam-ma-bát-để, vì sao không thiết lập làm nơi đến của Thiện sĩ?

Đáp: Cần phải nói mà không nói đến thì nên biết là nghĩa này có khác.

Có người nói: Nếu hiện bày thô thiển dễ dàng nhận biết, thì thiết lập nơi đến của Thiện sĩ; loại ấy không hiện bày rõ ràng, vì vậy không nói đến.

Có người nói: Đức Phật vì khuyến khích Thánh giả chưa lìa nhiễm của cõi Dục là nơi nhiều lỗi lầm tai họa, làm cho nhanh chóng lìa bỏ, cho nên nói Bất hoàn đi đến cõi Sắc làm nơi đến của Thiện sĩ; không vì khuyến khích Thánh giả chưa lìa nhiễm của cõi Sắc là nơi ít lỗi lầm tai họa, làm cho nhanh chóng lìa bỏ, cho nên không nói Bất hoàn đi đến cõi Vô sắc làm nơi đến của Thiện sĩ.

Có người nói: Nếu có sắc thân, dựa vào nơi có sắc, có oai nghi vắng lặng như đến-đi…, có thể làm cho người khác biết là Thiện sĩ, thì thiết lập nơi đến của Thiện sĩ; đi đến cõi Vô sắc thì không có sự việc như vậy, cho nên không thiết lập nơi đến của Thiện sĩ.

Có người nói: Nếu nơi nào có năm loại Bất hoàn có thể thi thiết nơi đến của bảy loại Thiện sĩ, thì thiết lập nơi đến của Thiện sĩ; Bất hoàn đi đến cõi Vô sắc, không có đủ năm loại, không có thể thi thiết nơi đến của bảy loại Thiện sĩ, vì vậy không nói đến.

Có người nói: Nếu cõi ấy chỉ có nơi sinh của Thánh giả, thì thiết lập nơi đến của Thiện sĩ; cõi Vô sắc thì không như vậy.

Có người nói: Nếu đã đạt được tu xen lẫn (tạp tu) Tĩnh lự, tuy lui sụt mà không mất đi Tĩnh lự, thì thiết lập nơi đến của Thiện sĩ; đi đến cõi Vô sắc thì không như vậy.

Có người nói: Nếu cõi đã lìa bỏ pháp không phải Thiện sĩ, có các Thiện sĩ qua lại bàn luận ở trong cõi ấy, thì thiết lập nơi đến của Thiện sĩ; cõi Vô sắc thì không như vậy, cho nên không thiết lập nơi đến của Thiện sĩ.

Hỏi: Vì sao A-la-hán không phải là nơi đến của Thiện sĩ?

Đáp: Cũng cần phải nói A-la-hán làm nơi đến của Thiện sĩ, mà không nói đến thì nên biết là nghĩa này có khác.

Lại nữa, hướng đến sinh lên phía trên thì thiết lập nơi đến của Thiện sĩ, A-la-hán không còn sinh, vì vậy cho nên không thiết lập.

Lại nữa, hướng đến quả phía trên thì thiết lập nơi đến của Thiện sĩ, A-la-hán tức là quả phía trên, lại không có quả phía trên để có thể hướng đến, vì vậy cho nên không thiết lập.

Hỏi: A-la-hán Thời giải thoát cũng hướng đến quả phía trên, đó là cầu mong Bất động, vì sao không phải là nơi đến của Thiện sĩ?

Đáp: Lúc ấy hướng đến chủng tánh phía trên, chứ không phải là hướng đến quả phía trên.

Lại nữa, nếu Thánh giả thành tựu phiền não mà không thành tựu pháp không phải là Thiện sĩ, thì thiết lập nơi đến của Thiện sĩ; A-la-hán không thành tựu phiền não, vì vậy cho nên không nói đến.

Lại nữa, trong phần vị Hữu học có lúc thành tựu pháp không phải là Thiện sĩ, đối với điều ấy thi thiết nơi đến của bảy loại Thiện sĩ; phần vị Vô học thì không như vậy, vì thế cho nên không nói đến.

Lại nữa, Bất hoàn là nơi đến của Thiện sĩ, A-la-hán là nơi đến của Thiện sĩ thù thắng, nếu phải nói là làm nơi đến của Thiện sĩ, thì chính là giảm bớt chứ không phải là nói đúng như thật, vì thế cho nên không nói đến.

Hỏi: Như đã nói tu xen lẫn (tạp tu) Tĩnh lự, thì tu xen lẫn lấy gì làm tự tánh?

Đáp: Lấy năm uẩn làm tự tánh.

Hỏi: Vì sao gọi là tu xen lẫn Tĩnh lự, nói tu xen lẫn ấy là muốn nêu rõ điều gì?

Đáp: Bởi vì xông ướp khắp nơi cho nên gọi là tu xen lẫn, xông ướp hợp lại cho nên gọi là tu xen lẫn, khiến cho kín đáo tốt đẹp cho nên gọi là tu xen lẫn, khiến cho trong sáng rõ ràng cho nên gọi là tu xen lẫn.

Phái Thí Dụ nói: “Duyên với pháp ấy cho nên gọi là tu xen lẫn.”

Xông ướp khắp nơi cho nên gọi là tu xen lẫn, như chiếc áo đặt vào một cái hòm, dùng hương thơm xông ướp khắp nơi; các Sư Du-già cũng lại như vậy, dùng hai sát-na vô lậu trước-sau để xông ướp khắp nơi một sát-na hữu lậu ở giữa.

Xông ướp hợp lại cho nên gọi là tu xen lẫn, như hoa cùng với cây Oa-cự hợp lại xông ướp khiến cho phát ra hương thơm; Sư Du-già ấy cũng lại như vậy, dùng hai sát-na vô lậu gần cạnh xông ướp xen lẫn nhau, phát ra một sát-na hữu lậu.

Khiến cho trang nghiêm đẹp đẽ cho nên gọi là tu xen lẫn, như dùng các loại hoa để rải phía trên tòa tháp, làm cho tòa tháp ấy trang nghiêm đẹp đẽ; như vậy, hành giả dùng hai sát-na vô lậu để rải phía trên một sát-na hữu lậu, khiến cho sát-na ấy đẹp đẽ tuyệt vời.

Khiến cho trong sáng rõ ràng cho nên gọi là tu xen lẫn, như đem quặng vàng bỏ vào trong lò lửa nung chảy tinh luyện làm cho chuyển sang trong sáng rực rỡ; như vậy, hành giả dùng một sát-na hữu lậu đặt vào giữa hai sát-na vô lậu, thường xuyên điều hòa tinh luyện khiến cho thanh tịnh tuyệt vời.

Duyên với pháp ấy cho nên gọi là tu xen lẫn, phái ấy nói dùng hai sát-na vô lậu duyên với một sát-na hữu lậu, cho nên gọi là tu xen lẫn.

Về Cõi, thì thụ động tu xen lẫn thuộc về cõi Sắc, chủ động tu xen lẫn không thuộc về cõi.

Về Địa, thì chủ động và thụ động tu xen lẫn đều thuộc về địa Căn bản của bốn Tĩnh lự.

Hỏi: Có tu xen lẫn Vô sắc hay không?

Đáp: Có người nói: Không có, bởi vì khó thấy, bởi vì vi tế. Có người nói: Đức Phật đối với Vô sắc thì có tu xen lẫn, chứ không phải là Thanh văn-Độc giác.

Về Sở y, thì dựa vào cõi Dục-Sắc.

Về Hành tướng, có người nói: Chủ động tu xen lẫn và thụ động tu xen lẫn đều làm mười sáu hành tướng Thánh. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì hành tướng Thánh không gián đoạn thì có thể khởi lên Thánh đạo, Thánh đạo không gián đoạn thì tiếp tục khởi lên hành tướng Thánh.

Nói như vậy thì chủ động tu xen lẫn làm mười sáu hành tướng, thụ động tu xen lẫn có lúc làm mười sáu hành tướng, có lúc làm các hành tướng khác, đó là Vô lượng-Giải thoát-Thắng xứ…

Về Sở duyên, có người nói: Chủ động tu xen lẫn lấy thụ động tu xen lẫn làm sở duyên, thụ động tu xen lẫn thì sở duyên không nhất định.

Nói như vậy thì chủ động tu xen lẫn duyên với bốn Thánh đế, thụ động tu xen lẫn duyên với tất cả các pháp.

Về Niệm trú, có người nói: Nếu chủ động tu xen lẫn hay là thụ động tu xen lẫn, thì đều là Pháp niệm trú.

Có người nói: Thụ động tu xen lẫn là bốn Niệm trú, chủ động tu xen lẫn chỉ là Pháp niệm trú.

Nói như vậy thì chủ động tu xen lẫn hay là thụ động tu xen lẫn, đều có thể là bốn Niệm trú.

Về Trí, có người nói: Chủ động tu xen lẫn là Khổ trí-Tập trí, thụ động tu xen lẫn là Thế tục trí.

Nói như vậy thì chủ động tu xen lẫn là bốn Pháp trí-bốn Loại trí, thụ động tu xen lẫn là Thế tục trí. Nếu nói chung thì Hữu học là bảy trí, Vô học là chín trí trừ ra Tha tâm trí.

Về Tam-ma-địa đi cùng, có người nói: Chủ động tu xen lẫn đi cùng Tam-ma-địa Không và Vô nguyện, thụ động tu xen lẫn không phải là đi cùng Tam-ma-địa.

Nói như vậy thì chủ động tu xen lẫn đi cùng ba Tam-ma-địa, thụ động tu xen lẫn không phải là đi cùng Tam-ma-địa.

Về Căn tương ưng, nói một cách tổng quát thì chủ động-thụ động tu xen lẫn đều tương ưng với ba căn Lạc-Hỷ và Xả.

Về quá khứ-vị lai-hiện tại, thì chủ động-thụ động tu xen lẫn đi cùng ba đời.

Về duyên với ba đời, có người nói: Chủ động tu xen lẫn duyên với quá khứ, thụ động tu xen lẫn duyên với ba đời và tách lìa thời gian (ly thế).

Nói như vậy thì chủ động và thụ động đều duyên với ba đời và tách lìa thời gian, vì trước đã nói chủ động tu xen lẫn duyên với bốn Thánh đế, cho nên không cần phải nói khác đi.

Về thiện-bất thiện và vô ký, chủ động và thụ động tu xen lẫn đều là thiện.

Về duyên với thiện…, chủ động và thụ động tu xen lẫn đều duyên với ba loại.

Về hệ thuộc ba cõi và không hệ thuộc, thụ động tu xen lẫn hệ thuộc cõi Sắc, chủ động tu xen lẫn là không hệ thuộc.

Về duyên với hệ thuộc ba cõi và không hệ thuộc, chủ động-thụ động tu xen lẫn đều duyên với hệ thuộc ba cõi và không hệ thuộc.

Về Học-Vô học và Phi học phi vô học, chủ động tu xen lẫn hoặc là Học, hoặc là Vô học; thụ động tu xen lẫn là Phi học phi vô học.

Về duyên với Học…, chủ động và thụ động tu xen lẫn đều duyên với ba loại.

Về do Kiến mà đoạn-do Tu mà đoạn và không đoạn, thụ động tu

xen lẫn là do Tu mà đoạn, chủ động tu xen lẫn là không đoạn.

Về duyên với do Kiến mà đoạn…, chủ động và thụ động tu xen lẫn đều duyên với ba loại.

Về duyên với danh-duyên với nghĩa, chủ động-thụ động tu xen lẫn đều duyên với hai loại.

Về duyên với Tự tương tục-Tha tương tục-Phi tương tục, chủ động và thụ động tu xen lẫn đều duyên với ba loại.

Khởi lên ở nơi nào, đó là khởi lên ở cõi Dục-Sắc. Nhưng bắt đầu khởi lên ở loài người thuộc ba châu của cõi Dục, từ đây khởi lên rồi hoặc là lui sụt-không lui sụt, sau đó sinh đến cõi Sắc lại khởi lên hiện rõ trước mắt.

Về gia hạnh đạt được-lìa nhiễm đạt được và sinh ra đạt được, Phật là lìa nhiễm đạt được, còn lại là gia hạnh mà đạt được.

Gia hạnh như thế nào? Đó là Sư Du-già trước khi tiến vào Tĩnh lự thứ tư khởi lên nhiều sát-na vô lậu, từ đây đã khởi lên nhiều sát-na hữu lậu, sau đó lại khởi lên nhiều sát-na vô lậu.Như vậy lặp đi lặp lại nhiều lần, về sau từ từ giảm bớt cho đến cuối cùng, hai sát-na vô lậu không gián đoạn, hai sát-na hữu lậu hiện rõ trước mắt;hai sát-na hữu lậu không gián đoạn, hai sát-na vô lậu lại hiện rõ trước mắt. Đến đây gọi là gia hạnh tu xen lẫn Tĩnh lự đầy đủ trọn vẹn.

Từ đây về sau không nhờ vào công dụng mà có thể từ một sátna vô lậu không gián đoạn, khởi lên một sát-na hữu lậu; ngay sát-na hữu lậu này không gián đoạn, lại khởi lên một sát-na vô lậu. Như vậy, sát-na hữu lậu ở giữa, sát-na vô lậu xen lẫn trước-sau, cho nên gọi là tu xen lẫn Tĩnh lự. Lúc bấy giờ gọi là thành tựu căn bản về tu xen lẫn Tĩnh lự.

Như vậy tu xen lẫn Tĩnh lự thứ tư rồi, nhờ vào thế lực này tùy theo sự thích hợp cũng có thể tu xen lẫn ba Tĩnh lự dưới. Trước là dựa vào loài người thuộc ba châu của cõi Dục, tu xen lẫn các Tĩnh lự như vậy rồi, sau đó sinh đến cõi Sắc, nhờ vào lực luyện tập thành thạo lại có thể như trước tùy theo sự thích hợp mà tu xen lẫn Tĩnh lự.

Hỏi: Những Bổ-đặc-già-la nào tu xen lẫn Tĩnh lự?

Đáp: Là Thánh giả chứ không phải là dị sinh, cũng là Học-cũng là Vô học, đó là Tín thắng giải-Kiến chí-Thời giải thoát-Bất thời giải thoát đều có thể tu xen lẫn Tĩnh lự.

Hỏi: Vì sao những loại ấy tu xen lẫn Tĩnh lự?

Đáp: Bởi vì ba nhân duyên cho nên tu xen lẫn Tĩnh lự:

  1. Bởi vì vui với Đẳng chí.
  2. Bởi vì sợ hãi phiền não.
  3. Bởi vì thích sinh đến nơi ấy.

Vui với Đẳng chí, đó là bởi vì trú trong niềm vui của pháp hiện tại, hoặc là vì thọ dụng tài sản giáo pháp bậc Thánh, hoặc là vì dạo chơi trong công đức, hoặc là vì quán xét những việc làm vốn có, hoặc là vì dẫn dắt công đức thù thắng.

Sợ hãi phiền não, đó là bởi vì lo sợ lui sụt khởi lên phiền não hiện rõ trước mắt mất đi công đức thù thắng, hoặc là vì lo sợ lui sụt khởi lên phiền não hiện rõ trước mắt thiêu đốt thân tâm.

Thích sinh đến nơi ấy, đó là bởi vì thích sinh đến năm cõi trời Tịnh Cư, nơi ấy không chung với dị sinh.

Tín thắng giải do đầy đủ ba nhân duyên cho nên tu xen lẫn Tĩnh lự.

Kiến chí do hai nhân duyên cho nên tu xen lẫn Tĩnh lự, trừ ra sợ hãi phiền não, bởi vì không lui sụt pháp.

Thời giải thoát do hai nhân duyên cho nên tu xen lẫn Tĩnh lự, trừ ra thích sinh đến nơi ấy, bởi vì rời bỏ tất cả mọi nơi sinh.

Bất thời giải thoát do một nhân duyên cho nên tu xen lẫn Tĩnh lự, trừ ra sợ hãi phiền não và thích sinh đến nơi ấy, bởi vì không lui sụt pháp và bởi vì rời bỏ tất cả mọi nơi sinh.

Hỏi: Tu xen lẫn Tĩnh lự có mấy phẩm?

Đáp: Có năm phẩm:

  1. Phẩm Hạ.
  2. Phẩm Trung.
  3. Phẩm Thượng.
  4. Phẩm đầy đủ trọn vẹn thù thắng nhất.
  5. Phẩm đầy đủ trọn vẹn cao nhất.

Mỗi một phẩm này ở phần vị thành tựu đầy đủ đều có ba tâm, đó là một tâm hữu lậu và hai tâm vô lậu.

Như vậy nói tổng quát là có mười lăm tâm, đó là năm tâm hữu lậu và mười tâm vô lậu.

Hỏi: Mười lăm tâm này, là không khởi lên Định, hay là khởi lên Định?

Đáp: Có người nói: Không khởi lên Định, ví như Kiến đạo nối tiếp nhau hiện rõ trước mắt.

Có người nói: Khởi lên Định, ví như Tu đạo thường xuyên khởi lên, thường xuyên tiến vào.

Nói như vậy thì điều này là không nhất định, hoặc có lúc không

khởi lên Định nhưng mười lăm tâm có thể nối tiếp nhau mà chuyển; hoặc là khởi lên Định, trong đó hoặc có lúc khởi ba tâm rồi mà liền khởi lên Định, hoặc có lúc khởi sáu tâm rồi mà liền khởi lên Định, hoặc có lúc khởi chín tâm rồi mà liền khởi lên Định, hoặc có lúc khởi mười hai tâm rồi mà liền khởi lên Định.

Vì thế cho nên ở trung gian của năm phẩm ấy, hoặc là khởi lênkhông khởi lên tu xen lẫn thành tựu đầy đủ.

Hỏi: Mười lăm tâm này, mấy tâm là đã từng đạt được, mấy tâm là chưa từng đạt được?

Đáp: Có người nói: Năm tâm là chưa từng đạt được, mười tâm là đã từng đạt được, đó là bởi vì lúc năm tâm trước hiện rõ ở trước mắt, mười tâm còn lại tu ở vị lai.

Có người nói: Mười tâm là chưa từng đạt được, năm tâm là đã từng đạt được , đó là bởi vì lúc mười tâm trước hiện rõ ở trước mắt, năm tâm sau tu ở vị lai.

Nói như vậy thì điều này là không nhất định, hoặc có lúc mười lăm tâm đều là chưa từng đạt được, hoặc có lúc mười lăm tâm đều là đã từng đạt được, hoặc có lúc phần ít là đã từng đạt được-phần ít là chưa từng đạt được.

Hỏi: Mười lăm tâm này, mấy tâm là Chuyển, mấy tâm là Tùy chuyển?

Đáp: Có người nói: Năm tâm trước là Chuyển, mười tâm sau là Tùy chuyển.

Có người nói: Mười tâm trước là Chuyển, năm tâm sau là Tùy chuyển.

Nói như vậy thì điều này là không nhất định, hoặc có lúc tất cả đều là Chuyển, hoặc có lúc tất cả đều là Tùy chuyển, hoặc có lúc phần ít là Chuyển-phần ít là Tùy chuyển.

Hỏi: Nếu chủng loại của phẩm này Chuyển thì chủng loại của phẩm này Tùy chuyển, cũng là chủng loại của phẩm khác chăng?

Đáp: Có người nói: Nếu chủng loại của phẩm này Chuyển thì chủng loại của phẩm này Tùy chuyển, đó là Trí-Sở duyên-Hành tướngNiệm trú trước sau thuận theo nhau thì mới thành tựu tu xen lẫn.

Vì thế cho nên nếu chủng loại của phẩm này Chuyển thì chắc chắn chủng loại của phẩm này Tùy chuyển, không như vậy thì làm trở ngại đối với tu xen lẫn.

Có người nói: Nếu chủng loại của phẩm này Chuyển thì chủng loại của phẩm khác Tùy chuyển, đó là Trí-Sở duyên-Hành tướng-Niệm trú khác chủng loại xen kẽ lẫn nhau thì mới thành tựu tu xen lẫn.

Vì thế cho nên nếu chủng loại của phẩm này Chuyển thì chắc chắn chủng loại của phẩm khác Tùy chuyển, không như vậy thì sẽ trái với nghĩa của tu xen lẫn.

Nói như vậy thì điều này là không nhất định, đó là nếu Pháp trí làm Chuyển, thì hoặc Pháp trí, hoặc Loại trí làm Tùy chuyển; nếu Loại trí làm Chuyển thì hoặc Loại trí, hoặc Pháp trí làm Tùy chuyển; trí khác cũng như vậy. Nếu duyên với hữu vi làm Chuyển, thì hoặc duyên với hữu vi, hoặc duyên với vô vi làm Tùy chuyển; duyên với pháp khác cũng như vậy. Nếu hành tướng Vô thường làm Chuyển, thì hoặc là hành tướng Vô thường, hoặc là hành tướng Khổ… làm Tùy chuyển; hành tướng khác cũng như vậy. Nếu Thân niệm trú làm Chuyển, thì hoặc là Thân niệm trú, hoặc là Thọ niệm trú… làm Tùy chuyển; Niệm trú khác cũng như vậy.

Hỏi: Nếu Chuyển và Tùy chuyển, hoặc là không giống nhau thì Sở duyên-Hành tướng có tạp loạn, vì sao không làm cho trở ngại đối với tu xen lẫn Tĩnh lự?

Đáp: Bởi vì phần vị gia hạnh trước đây đã tu thuần thục, con đường thẳng tắp đã thành tựu, tuy là tạp loạn mà không làm trở ngại đối với tu xen lẫn. Như tạp nhiễm trong Kiến đạo và đạo thế tục, tuy Hành tướngSở duyên trên dưới tạp loạn, mà không có gì trở ngại; ở đây cũng như vậy.

Hỏi: Nếu Chuyển và Tùy chuyển, hoặc là cũng giống nhau thì làm sao có thể gọi là tu xen lẫn Tĩnh lự, bởi vì không phải là đối với một loại Hành tướng-Sở duyên mà có thể gọi là xen lẫn?

Đáp: Bởi vì hữu lậu và vô lậu xen kẽ nhau-lẫn tạp nhau cho nên gọi là tu xen lẫn, không phải là Trí… trước sau khác nhau mà gọi là xen lẫn.

Hỏi: Vì sao tu xen lẫn Tĩnh lự phải là hữu lậu và vô lậu xen lẫn nhau mà khởi lên?

Đáp: Bởi vì muốn hiển bày ở trong hai loại Tĩnh lự này có thể tiến vào-rời ra tự tại.

Lại nữa, bởi vì muốn dùng vô lậu đặt ở trước sau, xông ướp hữu lậu ở giữa khiến cho càng vi diệu thù thắng mà sinh đến cõi Tịnh Cư.

Lại nữa, bởi vì từ vô thỉ đến nay Tịnh của Tĩnh lự bị Vị tương ưng của Tĩnh lự lấn ép xen tạp, nay muốn làm cho cùng với Vô lậu của Tĩnh lự thay đổi lẫn nhau tiến vào-rời ra, khiến cho Vị tương ưng của Tĩnh lự không còn xen tạp với nhau, lần lượt chuyển đổi mà cách xa.

Lại nữa, hành giả trải qua thời gian dài tiến vào Tĩnh lự, cuối cùng cảm thọ sự nuôi lớn đầy đủ khắp toàn thân, bởi vì muốn làm cho trong thân tạm thời thông suốt thư thả, cho nên cùng với Vô lậu xen lẫn nhau mà khởi lên.

Những người muốn tu xen lẫn bốn Tĩnh lự, trước hết cần phải tu xen lẫn Tĩnh lự thứ tư, lúc pháp tu ấy đã thành tựu đầy đủ, tiếp theo lại tu xen lẫn Tĩnh lự thứ ba, tiếp theo lại tu xen lẫn Tĩnh lự thứ hai, cuối cùng tu xen lẫn Tĩnh lự thứ nhất. Nếu không tu xen lẫn Tĩnh lự thứ tư trước tiên, thì người ấy đến cuối cùng không có thể tu xen lẫn địa dưới.

Hỏi: Dựa vào luận mà phát sinh luận, vì sao trước hết cần phải tu xen lẫn Tĩnh lự thứ tư, sau đó mới có thể tu ba địa dưới?

Đáp: Bởi vì Tĩnh lự thứ tư đầy đủ trọn vẹn nhất trong các Tĩnh lự, là nơi nương tựa thù thắng nhất để khởi lên công đức, có thể dẫn đến niềm vui Khinh an thù thắng nhất, khiến cho đầy đủ khắp toàn thân sở y, là nơi nương tựa của nhiều công đức, là Định không lay chuyển, niềm vui thù thắng nhất trong các hành, có khả năng chịu đựng cao nhất.

Lại nữa, bởi vì Tĩnh lự thứ tư ở chính giữa các Định vô lậu, ở phía trên và ở phía dưới đều có ba địa.

Lại nữa, bởi vì Tĩnh lự thứ tư là nơi hằng hà sa số tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, đều dựa vào đây mà đạt được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Lại nữa, bởi vì Tĩnh lự thứ tư có đủ năm loại nhân-năm loại quả, năm loại nhân đó là năm phẩm tu xen lẫn, năm loại quả đó là năm cõi trời Tịnh Cư.

Hỏi: Tu xen lẫn ba Tĩnh lự dưới có mấy phẩm?

Đáp: Có người nói: Chỉ có ba phẩm, đó là Hạ-Trung và Thượng, bởi vì địa dưới không có năm cõi trời Tịnh Cư.

Nói như vậy thì cũng có năm phẩm.

Hỏi: Địa ấy không có năm quả, vì sao có nhân của năm phẩm?

Đáp: Tuy không có năm quả mà pháp Định của địa ấy có năm phẩm.

Lại nữa, bởi vì địa dưới tuy không có quả của năm cõi trời Tịnh Cư mà có căn của năm phẩm.

Hỏi: Dựa vào luận mà phát sinh luận, ba Tĩnh lự dưới đã có năm phẩm tu xen lẫn, vì sao không có quả của năm cõi trời Tịnh Cư?

Đáp: Bởi vì không phải là ruộng đất, không phải là đồ đựng, cho đến nói rộng ra.

Lại nữa, bởi vì Thánh giả chán ngán lo sợ cùng nơi sinh với dị sinh, cho nên cầu mong sinh đến cõi trời Tịnh Cư; nếu địa dưới có cõi trời Tịnh Cư, thì ở nơi sinh cùng với dị sinh không có thể chán ngán lìa xa, bởi vì chưa lìa nhiễm đối với nơi sinh phía trên.

Lại nữa, bởi vì Thánh giả muốn vượt qua nơi thọ sinh của dị sinh, cho nên sinh đến cõi trời Tịnh Cư; nếu địa dưới có cõi trời Tịnh Cư, thì không có thể vượt qua nơi thọ sinh của dị sinh, bởi vì ở phía trên vẫn có nơi của dị sinh.

Lại nữa, bởi vì Thánh giả chán ngán nơi tai họa, cho nên cầu mong sinh đến cõi trời Tịnh Cư; bởi vì trong ba địa dưới đều có tai họa, cho nên không có cõi trời Tịnh Cư.

Lại nữa, cõi trời Tịnh Cư là do nghiệp thù thắng mà cảm đến thọ lượng lâu dài; nếu địa dưới có cõi trời Tịnh Cư, thì lúc ba tai họa nổi lên, thọ lượng nhất định ấy có mạng chung hay không? Nếu mạng chung thì thọ lượng ấy nhất định không phải là chết yểu. Nếu không mạng chung thì lẽ ra phải làm trở ngại đến tai họa nổi lên. Như nói: Nếu nơi nào có một hữu tình cho đến trứng kiến tồn tại, thì tai họa hoàn toàn không hủy hoại. Bởi vì muốn làm cho không có lỗi lầm như vậy, cho nên địa dưới không có cõi trời Tịnh Cư.

Tôn giả Thế Hữu nói rằng: “Vì sao địa dưới không có cõi trời Tịnh Cư? Bởi vì tu xen lẫn Tĩnh lự mới sinh đến cõi trời Tịnh Cư, lúc tu xen lẫn Tĩnh lự thì chắc chắn đã lìa nhiễm của ba địa dưới, chứ không phải là ở địa đã lìa nhiễm mà có thể thọ sinh. Vì thế cho nên cõi trời Tịnh Cư không phải là địa dưới vốn có.

Lại nữa, người lợi căn mới có thể tu xen lẫn, người có thể tu xen lẫn thì chắc chắn có thể nhanh chóng vượt qua địa bất tịnh ở dưới mà đến nơi thuần tịnh, cho nên địa dưới không có cõi trời Tịnh Cư.

Lại nữa, người ấy cần phải đạt được địa sở y của Định Biên tế thì mới có thể tu xen lẫn, người có thể tu xen lẫn thì mới sinh đến nơi ấy, cho nên ở địa dưới không có cõi trời Tịnh Cư.”

Đại đức nói rằng: “Hữu tình ở địa dưới, phần nhiều vào lúc thế giới hủy hoại thì sinh lên trên, lúc thế giới thành lập thì sinh xuống dưới, sinh ở cõi trời Tịnh Cư thì không có sự việc như vậy, vì thế cho nên địa dưới không có cõi trời Tịnh Cư.”

Hỏi: Vì sao Tịnh Cư chỉ có năm chứ không tăng-không giảm?

Đáp: Hiếp Tôn giả nói: “Điều này không cần phải hỏi. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì nếu nhiều hay ít thì cũng đều sinh ra nghi ngờ, không bởi vì nghi ngờ mà cho là trái với lý, nhưng ở trong nghĩa như thật về pháp tướng chỉ cần có năm chứ không tăng-không giảm.”

Có người nói: Bởi vì đối với nơi sinh không chung của dị sinh chỉ có năm, cho nên nơi sinh của Thánh giả cũng chỉ có năm; năm nơi sinh không chung của dị sinh, đó là ba nẽo ác, châu Bắc Câu-lô và cõi trời Vô tưởng.

Có người nói: Bởi vì tu xen lẫn Tĩnh lự có năm phẩm, cho nên đã cảm đến cõi trời Tịnh Cư cũng chỉ có năm.

Hỏi: Ngay cả tu xen lẫn Tĩnh lự, vì sao chỉ có năm chứ không tăng-giảm?

Đáp: Bởi vì thế lực của tu xen lẫn chỉ có bấy nhiêu; như xu thế của Kiến đạo là mười lăm tâm, chỉ có bấy nhiêu chứ không tăng-không giảm. Như vậy, thế lực của tu xen lẫn Tĩnh lự cũng là mười lăm tâm mà không có tăng-giảm.

Lại nữa, bởi vì tu xen lẫn Tĩnh lự là công đức thù thắng, không phải là do phẩm Hạ-Trung thâu nhiếp, chỉ có Thượng Hạ-Thượng Trung-Thượng Thượng-Thượng Thắng-Thượng Cực, cho nên chỉ có năm phẩm.

Có Sư khác nói: Tu xen lẫn Tĩnh lự tức là điều hòa luyện tập năm căn như Tín…, như thứ tự ấy tùy theo một căn tăng thượng mà thành năm phẩm, cho nên chỉ có năm. Vì vậy dựa vào tu xen lẫn có năm phẩm, cho nên cõi trời Tịnh Cư cũng chỉ có năm.

Có người nói: Tĩnh lự thứ tư có căn thiện thuộc chín phẩm theo thứ tự sinh vào chín nơi, đó là căn thiện Hạ Hạ sinh vào cõi trời Vô Vân, căn thiện Hạ Trung sinh vào cõi trời Phước Sinh, cho đến căn thiện Thượng Thượng sinh đến cõi trời Sắc Cứu Cánh, đối với những nơi này không có thể tăng-giảm, vì thế cho nên cõi trời Tịnh Cư chỉ cần có năm.

Có người nói: Tĩnh lự thứ tư có phiền não thuộc chín phẩm, nếu đối với chín phẩm hoàn toàn chưa điều phục thì sinh vào cõi trời Vô Vân, điều phục phẩm Thượng Thượng thì sinh vào cõi trời Phước Sinh, cho đến điều phục phẩm Hạ Trung thì sinh đến cõi trời Sắc Cứu Cánh, không có ai điều phục phẩm Hạ Hạ mà thọ sinh nơi ấy, vì thế cho nên cõi trời Tịnh Cư chỉ có năm loại.

Hỏi: Có thể có tu xen lẫn Tĩnh lự mà không sinh đến cõi trời Tịnh Cư chăng?

Đáp: Có, đó là tu xen lẫn Tĩnh lự rồi hoặc là thành tựu mà nhập Niết-bàn trong pháp hiện tại, hoặc là lui sụt sinh ở địa dưới, hoặc là tiến tới sinh đến cõi Vô sắc, đây gọi là người không thích cõi trời Tịnh Cư mà tu xen lẫn Tĩnh lự.

Hỏi: Có thể có khởi lên đầy đủ năm phẩm tu xen lẫn Tĩnh lự mà sinh vào cõi trời Vô Vân… chăng? Đáp: Có, đó là có người trước hết sinh vào cõi trời Vô Vân, tiếp đến sinh vào cõi trời Phước Sinh, tiếp đến sinh vào cõi trời Quảng Quả, cuối cùng mới theo thứ tự sinh đến năm cõi trời Tịnh Cư.

*******

 

Như luận Thi Thiết nói: “Có năm cõi trời Tịnh Cư, đó là cõi trời Vô Phiền-Vô Nhiệt-Thiện Hiện-Thiện Kiến và Sắc Cứu Cánh.

Thế nào là cõi trời Vô Phiền? Đó là cõi trời Vô Phiền cùng một loại Chúng đồng phần làm bạn, nương tựa đạt được-sự việc đạt đượcnơi chốn đạt được, và đã sinh ra Sắc-Thọ- Tưởng-Hành-Thức vô phú vô ký của cõi trời ấy, thì gọi là cõi trời Vô Phiền.” Hỏi: Vì sao cõi trời ấy gọi là Vô Phiền?

Đáp: Đó là giả danh-giả tưởng, danh thi thiết-tưởng thi thiết, tùy theo ý muốn mà lập ra, không nhất định phải như tên gọi đều có nghĩa ấy.

Lại nữa, cõi trời ấy thân không có phiền não quấy nhiễu, tâm không có phiền não quấy nhiễu, suốt một thời kỳ thọ nhận niềm vui hoàn toàn vắng lặng, không phải là địa dưới vốn có, cho nên gọi là Vô Phiền.

Lại nữa, cõi trời ấy thấy rõ Khổ thật sự là Khổ, Tập thật sự là Tập, Diệt thật sự là Diệt, Đạo thật sự là Đạo, lìa bỏ phiền não thô nặng của địa dưới đã khởi lên, cho nên gọi là Vô Phiền.

Lại nữa, Phiền nghĩa là Quảng, tức là cõi trời Quảng Quả, nay cõi trời này đầu tiên vượt lên trên cõi trời ấy, cho nên gọi là Vô Phiền.

“Thế nào là cõi trời Vô Nhiệt? Đó là cõi trời Vô Nhiệt cùng một loại Chúng đồng phần làm bạn, cho đến nói rộng ra.” Hỏi: Vì sao cõi trời ấy gọi là Vô Nhiệt?

Đáp: Đó là giả danh-giả tưởng, danh thi thiết-tưởng thi thiết, cho đến nói rộng ra.

Lại nữa, cõi trời ấy thân không có phiền não nóng bỏng, tâm không có phiền não nóng bỏng, suốt một thời kỳ thọ nhận niềm vui hoàn toàn mát mẻ, không phải là địa dưới vốn có, cho nên gọi là Vô Nhiệt.

Lại nữa, cõi trời ấy thấy rõ Khổ thật sự là Khổ cho đến Đạo thật sự là Đạo, lìa bỏ hơi nóng do phiền não của địa dưới đã khởi lên, cho nên gọi là Vô Nhiệt.

Lại nữa, trong cõi trời Vô Phiền áp sát bên cạnh ngọn lửa phiền não tăng thượng của địa dưới đã khởi lên, cho nên vẫn gọi là nóng bỏng, cõi trời này vượt lên trên cõi trời ấy, cho nên gọi là Vô Nhiệt.

“Thế nào là cõi trời Thiện Hiện? Đó là cõi trời Thiện Hiện cùng một loại Chúng đồng phần làm bạn, cho đến nói rộng ra.”

Hỏi: Vì sao cõi trời ấy gọi là Thiện Hiện? Đáp: Đó là giả danh-giả tưởng, danh thi thiết-tưởng thi thiết, cho đến nói rộng ra.

Lại nữa, cõi trời ấy có hình sắc đoan chánh tuyệt vời, hơn hẳn hai cõi trời dưới, cho nên gọi là Thiện Hiện.

Lại nữa, cõi trời ấy thấy rõ Khổ thật sự là Khổ cho đến Đạo thật sự là Đạo, lìa bỏ mọi cấu trược, tâm thanh tịnh hiển bày rõ ràng, cho nên gọi là Thiện Hiện.

Lại nữa, cõi trời ấy đạt được tu xen lẫn Tĩnh lự thuộc phẩm Thượng, pháp thiện hiển bày rõ ràng, cho nên gọi là Thiện Hiện.

“Thế nào là cõi trời Thiện Kiến? Đó là cõi trời Thiện Kiến cùng một loại Chúng đồng phần làm bạn, cho đến nói rộng ra.” Hỏi: Vì sao cõi trời ấy gọi là Thiện Kiến?

Đáp: Đó là giả danh-giả tưởng, danh thi thiết-tưởng thi thiết, cho đến nói rộng ra.

Lại nữa, cõi trời ấy có hình sắc lại càng tuyệt vời hơn, mọi người đều thích ngắm nhìn, cho nên gọi là Thiện Kiến.

Lại nữa, cõi trời ấy thấy rõ Khổ thật sự là Khổ cho đến Đạo thật sự là Đạo, lìa bỏ mọi cấu trược, tâm thanh tịnh càng hiển bày rõ ràng, cho nên gọi là Thiện Kiến.

Lại nữa, cõi trời ấy đạt được tu xen lẫn Tĩnh lự thuộc phẩm đầy đủ trọn vẹn thù thắng nhất, pháp thiện đã đạt được càng hiển bày rõ ràng, cho nên gọi là Thiện Kiến.

“Thế nào là cõi trời Sắc Cứu Cánh? Đó là cõi trời Sắc Cứu Cánh cùng một loại Chúng đồng phần làm bạn, cho đến nói rộng ra.” Hỏi: Vì sao cõi trời ấy gọi là Sắc Cứu Cánh?

Đáp: Đó là giả danh-giả tưởng, danh thi thiết-tưởng thi thiết, cho đến nói rộng ra.

Lại nữa, cõi trời ấy có hình sắc thật là thù thắng tuyệt vời, nơi khác không sánh kịp, cho nên gọi là Sắc Cứu Cánh.

Lại nữa, cõi trời ấy thấy rõ Khổ thật sự là Khổ cho đến Đạo thật sự là Đạo, lìa bỏ mọi cấu trược, các cõi trời khác vốn không sánh bằng, cho nên gọi là Sắc Cứu Cánh.

Lại nữa, cõi trời ấy đạt được tu xen lẫn Tĩnh lự thuộc phẩm đầy đủ trọn vẹn thù thắng cao nhất, những căn thiện của cõi Sắc vốn không có thể sánh bằng, cho nên gọi là Sắc Cứu Cánh.

Lại nữa, cõi trời ấy đối với cõi có Sắc là tôn quý nhất-thù thắng nhất-cao nhất, cho nên gọi là Sắc Cứu Cánh.

Lại nữa, cõi trời ấy cũng gọi là cõi trời Ngại Cứu Cánh, Ngại nghĩa là tích tập về Sắc, cõi trời ấy đối với sự tích tập về Sắc này là tôn quý nhất-thù thắng nhất-cao nhất, cho nên gọi là Ngại Cứu Cánh.

Lại nữa, cõi trời ấy cũng gọi là cõi trời Đảnh Cứu Cánh, bởi vì là đỉnh cao của tất cả các cõi có Sắc cho nên cũng là Cứu Cánh.

Hỏi: Cõi trời Tịnh Cư là do nghiệp mà cảm, hay là do tu xen lẫn Tĩnh lự? Nếu như vậy thì có gì sai? Nếu do nghiệp thì tu xen lẫn sẽ trở thành vô ích. Nếu do tu xen lẫn Tĩnh lự thì trái ngược nhau với luận Phẩm Loại Túc đã nói, như luận ấy nói: “Tu xen lẫn Tĩnh lự và do nghiệp cho nên sinh đến cõi trời Tịnh Cư…”

Đáp: Có người đưa ra cách nói này: Đó là do nghiệp mà cảm đến.

Hỏi: Tu xen lẫn Tĩnh lự lẽ nào không vô ích hay sao?

Đáp: Bởi vì Tu xen lẫn Tĩnh lự thì nghiệp được quyết định, cho nên không phải là vô ích.

Lại nữa, cần phải tu xen lẫn Tĩnh lự sau đó mới có thể dẫn đến nghiệp Tư ấy hiện rõ trước mắt, từ đây có thể dẫn đến Chúng đồng phần ấy.

Có Sư khác nói: Do tu xen lẫn Tĩnh lự.

Hỏi: Luận Phẩm Loại Túc đã nói nên hiểu thế nào?

Đáp: Tức là tu xen lẫn Tĩnh lự dùng thanh Nghiệp mà nói.

Lại nữa, luận ấy trước nói “Tu xen lẫn Tĩnh lự”, là bởi vì hiển bày lúc trước tiến vào Định ấy; sau nói “Và do nghiệp cho nên sinh đến cõi trời Tịnh Cư”, là bởi vì hiển bày về sau dựa vào lực của Định ấy cho nên sinh đến cõi trời Tịnh Cư.

Nói như vậy thì cũng do nghiệp lực, cũng do tu xen lẫn Tĩnh lự, nghĩa là nghiệp Tư hiện rõ trước mắt, nhưng nếu không tu xen lẫn Tĩnh lự thì không có thể sinh đến nơi ấy; tuy có tu xen lẫn Tĩnh lự, nhưng nếu không có nghiệp Tư hiện rõ trước mắt, thì cũng không có thể sinh đến nơi ấy. Vì thế cần phải có nghiệp Tư dẫn dắt tu xen lẫn Tĩnh lự, khiến cho được quyết định thì mới có thể sinh đến nơi ấy.

Hỏi: Những người Học thì lúc ấy tất cả vì đạt được điều chưa đạt được mà Học chăng? Giả sử vì đạt được điều chưa đạt được mà Học thì lúc ấy tất cả là Học chăng?

Đáp: Nên làm thành bốn câu phân biệt.

Hỏi: Vì sao soạn ra phần luận này?

Đáp: Kinh Thỉ-phược-ca là căn bản của luận này, kinh ấy nói đến Học những điều thuộc về Học (Học-sở Học) cho nên gọi là Học. Đừng có sinh nghi ngờ, những người Hữu học lúc Học những điều thuộc về Học thì mới gọi là Học, lúc trú trong tánh vốn có (bổn tánh) thì không gọi là Học; lúc những người Vô học trú trong tánh vốn có thì mới gọi là Vô học, lúc Học những điều thuộc về Học thì không gọi là Vô học. Muốn làm cho mối nghi này được quyết định, hiển bày về những người Học có lúc trú trong tánh vốn có, những người Vô học cũng Học những điều thuộc về Học, cho nên soạn ra phần luận này.

1. Có lúc Học không phải là vì đạt được điều chưa đạt được mà Học, đó là Học trú trong tánh vốn có.

Có hai nhân duyên gọi là trú trong tánh vốn có:

1-. Giữ gìn tánh hiền thiện mà không có sự đổi thay lui sụt (thối chuyển).

2-. Giữ gìn đức của mình mà không tiến tới tu tập.

Nay chỉ nói về không tiến tới tu tập thì gọi là trú trong tánh vốn có, đó là hàng Dự lưu không tiến tới tu tập gia hạnh của quả Nhất lai, hàng Nhất lai không tiến tới tu tập gia hạnh của quả Bất hoàn, hàng Bất hoàn không tiến tới tu tập gia hạnh của quả A-la-hán, Tín thắng giải không cầu làm Kiến chí.

Lại nữa, những người Học không cầu khởi lên những pháp chưa đạt được như quán Bất tịnh, Trì tức niệm, Niệm trú, ba Nghĩa quán, bảy Xứ thiện, Tĩnh lự, Vô lượng, Vô sắc, Giải thoát, Thắng xứ, Biến xứ, không dẫn dắt phát khởi các Thông, không tu xen lẫn Tĩnh lự, không tiến vào Định Diệt tận, không thọ trì đọc tụng ba Tạng kinh-luật-luận cũng không giảng dạy cho người khác, không ở chốn A-luyện-nhã tư duy quán sát về ba Tạng kinh-luật-luận cũng không chịu khó quản lý sự việc của Phật-Pháp-Tăng. Đó gọi là Học không phải vì đạt được điều chưa đạt được mà Học.

Hỏi: Lúc ấy vì nhân duyên gì mà không Học những điều thuộc về Học?

Đáp: Lúc ấy hoặc vì bệnh kéo dài, hoặc thiếu duyên giúp đỡ, dấy lên tư duy như vậy: Mình đã trải qua vô lượng sinh tử, chỉ còn lại bảy đời, hoặc chỉ còn lại một đời. Có lúc nghĩ rằng mình đã ra khỏi bùn lầy của cõi Dục, chỉ còn lại chút ít của cõi trên, đời hiện tại đã khổ đau lo lắng, hoặc thiếu duyên giúp đỡ, may mắn có thể ngừng nghỉ chút ít, vội vàng gì tiến tới tu tập? Vì vậy người Học không Học những điều thuộc về Học.

2. Có lúc vì đạt được điều chưa đạt được mà Học nhưng lúc ấy không phải là Học, đó là A-la hán và dị sinh tiến tới cầu pháp phía trên.

Trong này, pháp phía trên là công đức thù thắng, tức là Thời giải thoát cầu làm Bất động, và A-la hán khởi lên những pháp chưa đạt được như quán Bất tịnh, Trì tức niệm, Niệm trú, ba Nghĩa quán, bảy Xứ thiện, Tĩnh lự, Vô lượng, Vô sắc, Giải thoát, Thắng xứ, Biến xứ, dẫn dắt phát khởi các Thông, tu xen lẫn Tĩnh lự, tiến vào Định Diệt tận; khởi lên Vô ngại giải, Vô tranh, Nguyện trí, Định Biên tế, Không Không, Vô nguyện Vô nguyện, Vô tướng Vô tướng; thọ trì đọc tụng ba Tạng kinhluật-luận, hoặc là giảng dạy cho người khác, hoặc là ở chốn A-luyệnnhã, tư duy quán sát về ba Tạng kinh-luật-luận, hoặc lại chịu khó quản lý sự việc của Phật-Pháp-Tăng.

Và dị sinh cầu lìa nhiễm cõi Dục, lìa nhiễm cõi Sắc, lìa một phần nhiễm cõi Vô sắc; hoặc là khởi lên quán Bất tịnh, Trì tức niệm, Niệm trú, ba Nghĩa quán, bảy Xứ thiện, Noãn-Đảnh-Nhẫn-Thế đệ nhất pháp, Tĩnh lự, Vô lượng, Vô sắc, Giải thoát, Thắng xứ, Biến xứ, dẫn dắt phát khởi các Thông, tiến vào Định Diệt tận; thọ trì đọc tụng ba Tạng kinhluật-luận, hoặc là giảng dạy cho người khác, hoặc là ở chốn A-luyệnnhã, tư duy quán sát về ba Tạng kinh-luật-luận, hoặc lại chịu khó quản lý sự việc của Phật-Pháp-Tăng. Đó gọi là vì đạt được điều chưa đạt được mà Học nhưng lúc ấy không phải là Học.

Hỏi: Vì sao A-la hán lại Học những điều thuộc về Học? Đáp: Lúc ấy tuy không vì đoạn phiền não cho nên Học, mà vì yêu thích công đức thù thắng cho nên Học.

3. Có lúc Học cũng vì đạt được điều chưa đạt được mà Học, đó là Học tiến tới cầu pháp phía trên, tức là hàng Dự lưu tiến tới tu tập gia hạnh của quả Nhất lai, nói rộng ra cho đến hoặc lại chịu khó quản lý sự việc của Phật-Pháp-Tăng. Đó gọi là Học cũng vì đạt được điều chưa đạt được mà Học.

4. Có lúc không phải là Học cũng không phải là vì đạt được điều

chưa đạt được mà Học, đó là A-la hán và dị sinh trú trong tánh vốn có, tức là Thời giải thoát không cầu làm Bất động, nói rộng ra cho đến cũng không chịu khó quản lý sự việc của Phật-Pháp-Tăng; và dị sinh không cầu lìa nhiễm cõi Dục, nói rộng ra cho đến cũng không chịu khó quản lý sự việc của Phật-Pháp-Tăng. Đó gọi là không phải Học cũng không phải vì đạt được điều chưa đạt được mà Học.

Hỏi: Những người Vô học thì lúc ấy tất cả không vì đạt được điều chưa đạt được mà Học chăng? Giả sử không vì đạt được điều chưa đạt được mà Học thì lúc ấy tất cả là Vô học chăng?

Đáp: Nên làm thành bốn câu phân biệt:

1. Có lúc Vô học không phải là không vì đạt được điều chưa đạt được mà Học, đó là A-la hán tiến tới cầu pháp phía trên, tức là Thời giải thoát cầu làm Bất động, và A-la hán khởi lên những pháp chưa đạt được như quán Bất tịnh, Trì tức niệm, nói rộng ra cho đến hoặc lại chịu khó quản lý sự việc của Phật-Pháp-Tăng. Đó gọi là Vô học không phải là không vì đạt được điều chưa đạt được mà Học.

2. Có lúc không vì đạt được điều chưa đạt được mà Học nhưng lúc ấy không phải là Vô học, đó là Học và dị sinh trú trong tánh vốn có, tức là hàng Dự lưu không tiến tới tu tập gia hạnh của quả Nhất lai, nói rộng ra cho đến cũng không chịu khó quản lý sự việc của Phật-Pháp-Tăng; và dị sinh không vì lìa nhiễm cõi Dục, cũng không chịu khó quản lý sự việc của Phật-Pháp-Tăng. Đó gọi là không vì đạt được điều chưa đạt được mà Học nhưng lúc ấy không phải là Vô học.

3. Có lúc Vô học cũng không vì đạt được điều chưa đạt được mà Học, đó là A-la hán trú trong tánh vốn có, tức là Thời giải thoát không cầu làm Bất động, và A-la hán không cầu khởi lên những pháp chưa đạt được như quán Bất tịnh, Trì tức niệm, nói rộng ra cho đến cũng không chịu khó quản lý sự việc của Phật-Pháp-Tăng. Đó gọi là Vô học cũng không vì đạt được điều chưa đạt được mà Học.

4. Có lúc không phải là Vô học cũng không phải là không vì đạt được điều chưa đạt được mà Học, đó là Học và dị sinh tiến tới cầu pháp phía trên, tức là hàng Dự lưu tiến tới tu tập gia hạnh của quả Nhất lai, nói rộng ra cho đến hoặc lại chịu khó quản lý sự việc của Phật-PhápTăng; và dị sinh cầu lìa nhiễm cõi Dục, nói rộng ra cho đến hoặc lại chịu khó quản lý sự việc của Phật-Pháp-Tăng. Đó gọi là không phải là Vô học cũng không phải là không vì đạt được điều chưa đạt được mà Học.

Hỏi: Vì Học những điều thuộc về Học cho nên gọi là Học, hay là vì đạt được pháp Học cho nên gọi là Học? Giả sử như vậy thì có gì sai? Nếu như Học những điều thuộc về Học cho nên gọi là Học, thì văn này nên hiểu thế nào? Như nói: Học trú trong tánh vốn có. Nếu như đạt được pháp Học cho nên gọi là Học, thì trong kinh nói nên hiểu thế nào? Như nói: Học những điều thuộc về Học.

Đáp: Có người nói: Đạt được pháp Học cho nên gọi là Học, đó là nếu Học hay là không Học nhưng thành tựu pháp Học thì gọi là Học.

Hỏi: Nếu như vậy thì trong kinh nói nên hiểu thế nào?

Đáp: Kinh ấy chỉ dựa vào người Học hiện tại mà nói, chứ không nói đến tất cả.

Lại nữa, kinh ấy dựa vào ý thích không dừng lại cho nên đưa ra cách nói như vậy. Nghĩa là những người Học nếu khởi lên tâm thiện, hay là khởi lên tâm bất thiện-vô ký, hoặc là khởi lên gia hạnh, hay là không khởi lên gia hạnh, thì lúc ấy tất cả ý thích về Học chưa hề ngừng bỏ, bởi vì không vĩnh viễn rời bỏ gia hạnh. Như người đi đường, lúc tạm thời dừng chân nghỉ ngơi, người khác hỏi rằng đi đến nơi nào? Người ấy trả lời rằng đi đến nơi ấy. Lúc ấy cũng bởi vì ý thích không dừng lại, cho nên tuy dừng lại nhưng nói là đi đến; ở đây cũng như vậy.

Có người nói: Học những điều thuộc về Học cho nên gọi là Học.

Hỏi: Nếu như vậy thì văn này nên hiểu thế nào? Như nói: Học trú trong tánh vốn có.

Đáp: Văn này dựa vào tạm thời ngừng gia hạnh mà nói, nhưng bởi vì ý thích không rời bỏ Học, cho nên gọi là Học những điều thuộc về Học.

Lại nữa, lúc Học trú trong tánh vốn có, tuy không khởi lên tâmtâm sở pháp… thuộc về Học, mà Học ấy có thể luôn luôn hiện hành, dựa vào nghĩa này cho nên gọi là Học những điều thuộc về Học.

Hỏi: Nếu người Học là không Học, người Vô học là Học, thì tại sao kiến lập Học-Vô học khác nhau? Đáp: Ở trong phần vị Thánh giả, căn cứ theo đoạn trừ phiền não mà kiến lập Học-Vô học, chứ không dựa vào tu tập công đức thù thắng, vì thế cho nên có khác nhau.

Thuận lưu là nghĩa gì? Cho đến nói rộng ra.

Hỏi: Vì sao soạn ra phần luận này?

Đáp: Bởi vì muốn phân biệt nghĩa lý trong kinh. Như trong kinh nói: “Có bốn Bổ-đặc-già-la:

  1. Thuận lưu.
  2. Nghịch lưu.
  3. Trung trú.
  4. Đáo bỉ ngạn.”

Trong kinh tuy nói ra điều này mà không phân biệt rộng ra, kinh ấy là nơi nương tựa căn bản của luận này, điều gì mà kinh ấy không giải thích thì nay cần phải giải thích, cho nên soạn ra phần luận này.

Hỏi: Thuận lưu là nghĩa gì?

Đáp: Làm cành nhánh, làm cửa ngõ, làm quan hệ, làm con đường, làm dấu vết hướng đến, đối với các sinh loại, các nẽo, các cõi, các chủng loại, các sinh tử, là nghĩa của thuận lưu.

Hỏi: Nghịch lưu là nghĩa gì?

Đáp: Làm cành nhánh, làm cửa ngõ, làm quan hệ, làm con đường, làm dấu vết hướng đến, đối với diệt sinh loại, diệt nẽo, diệt cõi, diệt chủng loại, diệt sinh tử, là nghĩa của nghịch lưu.

Lưu có nhiều loại, hoặc nói về Thánh đạo gọi là lưu, hoặc nói về nghiệp gọi là lưu, hoặc nói về ái gọi là lưu, hoặc nói về sinh tử gọi là lưu. Trong này, lưu là chỉ nói về sinh tử.

Lại trong kinh nói: “Thuận lưu là thế nào? Đó là luyện tập về các Dục và tạo ra nghiệp ác. Nghịch lưu là thế nào? Đó là không luyện tập về các Dục, không tạo ra nghiệp ác.”

Nên biết kinh ấy dựa vào một đời mà kiến lập về Thuận lưu và Nghịch lưu. Trong này đã nói là dựa vào nhiều đời mà kiến lập về Thuận lưu và Nghịch lưu.

Lại nữa, kinh ấy dựa vào thời gian ngắn khởi lên Dục ác-lìa bỏ Dục ác mà kiến lập về Thuận lưu và Nghịch lưu. Vì vậy, chưa lìa nhiễm cõi Dục thì Thánh giả cũng gọi là Thuận lưu, đã lìa nhiễm cõi Dục thì dị sinh cũng gọi là Nghịch lưu. Trong này đã nói là dựa vào thời gian dài hướng về sinh tử-rời bỏ sinh tử mà kiến lập về Thuận lưu và Nghịch lưu. Vì vậy, có người đã lìa nhiễm cõi Sắc mà gọi là Thuận lưu, có người chưa lìa nhiễm cõi Dục mà gọi là Nghịch lưu.

Các sinh loại, đó là bốn loại Sinh. Các nẽo, đó là năm nẽo. Các cõi, đó là ba cõi. Các chủng loại, đó là chủng loại sai biệt như địa-xứ… Các sinh tử, đó là sự lưu chuyển sai biệt từ vô thỉ đến nay, cho đến về sau. Làm cành nhánh, đó là mười hai cành nhánh của Hữu. Làm cửa ngõ, đó là nghiệp và phiền não. Làm quan hệ, đó là nơi nương tựa. Làm con đường, đó là con đường đi đến sinh tử. Làm dấu vết hướng đến, đó là dấu vết hướng đến tiến vào Tát-ca-da (hữu thân kiến).

Trong này, năm câu trước nêu rõ về sinh tử, năm câu sau nêu rõ về nuôi lớn sinh tử, thâu nhiếp tiếp nhận sinh tử, tùy ý duy trì sinh tử, không đoạn tuyệt sinh tử, tùy thuận tăng thêm sinh tử, như dòng sông tuôn chảy mà không có khô cạn.

Trong nghĩa của Nghịch lưu, năm loại như sinh loại…, nói như trước. Sai biệt là được diệt bở đối với những loại ấy. Làm cành nhánh, đó là tám chi Thánh đạo. Làm cửa ngõ, đó là quán Bất tịnh, Trì tức niệm… Làm quan hệ, đó là ba Giải thoát môn. Làm con đường, đó là hướng đến con đường diệt bỏ sinh tử. Làm dấu vết hướng đến, đó là dấu vết hướng đến diệt bỏ Tát-ca-da kiến.

Trong này, năm câu trước nêu rõ về diệt bỏ sinh tử, năm câu sau nêu rõ có thể hủy diệt sinh tử mà không phải là nuôi lớn, có thể rời bỏ sinh tử mà không phải là thâu nhiếp tiếp nhận, có thể phá tan sinh tử mà không phải là tùy ý duy trì, có thể đoạn tuyệt đoạn tuyệt sinh tử mà không phải là không đoạn tuyệt, có thể xa lìa giảm bớt sinh tử mà không phải là tùy thuận tăng thêm, như chỗ đê vỡ dần dần làm cho khô cạn.

Hỏi: Đến đâu thì gọi là Thuận lưu và Nghịch lưu?

Đáp: Có người nói: Cho đến Khổ pháp trí nhẫn chưa sinh thì gọi là Thuận lưu, đã sinh thì gọi là Nghịch lưu.

Có người nói: Cho đến Thế đệ nhất pháp chưa sinh thì gọi là Thuận lưu, đã sinh thì gọi là Nghịch lưu.

Có người nói: Cho đến Nhẫn tăng thượng chưa sinh thì gọi là Thuận lưu, đã sinh thì gọi là Nghịch lưu. Có người nói: Cho đến pháp Nhẫn.

Có người nói: Cho đến pháp Đảnh.

Có người nói: Cho đến pháp Noãn.

Có người nói: Cho đến Niệm trú.

Có người nói: Cho đến quán Bất tịnh, Trì tức niệm… chưa sinh thì gọi là Thuận lưu, đã sinh thì gọi là Nghịch lưu.

Nói như vậy thì nếu chưa gieo trồng căn thiện thuận phần Giải thoát thì gọi là Thuận lưu, đã gieo trồng căn thiện thuận phần Giải thoát thì gọi là Nghịch lưu.

Nguyên cớ thế nào? Bởi vì vô lượng hữu tình tuy có thể cúng dường cho các Sa-môn và Bà-la-môn, bố thí cho những người nghèo khó-cô độc, đi xa mệt nhọc và người khổ hạnh, các loại đồ ăn thức uống-áo quần-đồ nằm-thuốc men chữa bệnh-nhà cửa-đèn sáng-hương hoa, cùng với các loại châu báu mà họ cần đến, còn thiết hội lớn cúng tế bình đẳng (vô giá hội), như Phệ-ma-la, Bất Cang Cường… Nhưng bởi vì họ không gieo trồng căn thiện thuận phần Giải thoát, cho nên ở trong sinh tử lâu dài nhận lấy quả ấy rồi, trở lại sinh vào ngạ quỷ nhận chịu nỗi khổ đói khát trải qua trăm ngàn năm, thậm chí không nghe đến tên gọi của ăn uống; hoặc là sinh trong loài người thì nghèo túng hèn mạt, lắm điều khổ não.

Hoặc lại thấy có vô lượng hữu tình, giữ gìn cấm giới, học nhiều hiểu rộng, thọ trì đọc tụng ba Tạng kinh-luật-luận, giải thích phân biệt văn nghĩa thông suốt; lại có thể hiểu thông các luận của thế tục, đó là các luận về Ký, luận về Nhân, luận về Vương pháp, luận về các phương pháp chữa bệnh, luận về nghệ thuật tinh xảo…; hoặc lại thành thạo đủ cả các luận của ngoại đạo, đó là các luận về Thắng, luận về Số, luận về Minh, luận về Thuận thế gian, luận về Ly hệ… Bởi vì họ không gieo trồng căn thiện thuận phần Giải thoát, cho nên ở trong sinh tử lâu dài nhận lấy quả ấy rồi, trở lại sinh trong nẽo bàng sinh, làm thân của các loài trâu-dê-la-lừa…, ngu si mù lòa thậm chí không thể nói được; hoặc sinh trong loài người thì đui điếc câm ngọng, tối tăm chậm chạp không có trí tuệ.

Hoặc lại thấy có vô lượng hữu tình, tu tập các pháp Định, hoặc lìa nhiễm của cõi Dục, hoặc lìa nhiễm của cõi Sắc, hoặc lìa một phần nhiễm của cõi Vô sắc, trú trong tám Đẳng chí, khởi lên bốn Vô lượng, dẫn dắt phát ra năm Thông. Bởi vì họ không gieo trồng căn thiện thuận phần Giải thoát, cho nên ở trong sinh tử lâu dài nhận lấy quả ấy rồi, trở lại sinh vào nẽo địa ngục, nhận chịu những nỗi khổ đau khốc liệt; hoặc sinh vào nẽo bàng sinh làm thân mãng xà, phun ra hơi độc hừng hực làm cho núi lở đá nhào; hoặc sinh trong loài người thì làm hạng Chiên-đồ-la, Bổ-yết-sa…, tạo nghiệp xấu ác.

Những loại như vậy tuy tạm thời thọ phước, mà trở lại rơi vào nẽo ác, cho nên đều gọi là Thuận lưu.

Nếu các hữu tình, hoặc chỉ bố thí một nắm thức ăn, hoặc chỉ thọ trì giới một ngày đêm, hoặc thậm chí đọc bài tụng bốn câu, hoặc trong chốc lát tu gia hạnh về Định, mà có thể gieo trồng căn thiện thuận phần Giải thoát. Từ đây về sau tuy bởi vì phiền não mà tạo tác các loại hành ác của thân-ngữ-ý, hoặc gây ra nghiệp vô gián, hoặc lại đoạn diệt tất cả căn thiện, thậm chí trong thân không có một chút chủng tử của pháp thiện, rơi vào địa ngục vô gián nhận chịu các loại khổ đau, nhưng được gọi là dừng nơi bến bờ của Niết-bàn, bởi vì họ chắc chắn được nhập Niết-bàn.

Trong này có thí dụ, như người câu cá dùng thức ăn làm mồi nhử, gắn ở trên lưỡi câu đưa vào trong nước sâu, có con cá nuốt lấy mồi câu, con cá ấy lúc bấy giờ tuy còn bơi lội đùa vui, hoặc là bơi vào trong hang, nhưng nên biết đã gọi là nằm ở trong tay người câu cá, bởi vì không bao lâu chắc chắn sẽ đến trên bờ.

Vì vậy cho nên nói: Thà làm Đề-bà-đạt-đa mà rơi vào địa ngục vô gián, chứ không làm Ốt-đạt-lạc-ca-át-ma-la-tử sinh đến cõi trời Phi tưởng phi phi tưởng. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì Đề-bà-đạt-đa tuy tạo ra ba nghiệp vô gián, đoạn các căn thiện, rơi vào địa ngục vô gián, mà vào lúc con người thọ đến bốn vạn tuổi, sẽ đạt được Bồ-đề Độc giác, lợi căn hơn hẳn Xá-lợi-tử… Ốt-đạt-lạc-ca-át-ma-la-tử tuy lìa nhiễm của tám địa, trú trong tám Đẳng chí, Xa-ma-tha cao nhất, sắp vượt qua ba cõi, đến gần cửa Cam lộ, sinh đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ, trải qua tám vạn Đại kiếp thọ nhận niềm vui vắng lặng; bởi vì lực của nghiệp ác, mà sinh vào chốn A-luyện-nhã ở trong rừng Khổ hạnh, làm loài chồn bay mang theo đôi cánh, bắt chim thú để ăn thịt, các loài sinh sống trong nước-trên đất-giữa bầu trời, không có loài nào có thể thoát được. Do hành ác này, mạng chung sẽ rơi vào địa ngục vô gián, nhận chịu tất cả các loại khổ đau khốc liệt khó mà chịu nổi.

Đức Phật không ghi nhận thời gian được giải thoát của người ấy. Vì thế cho nên nói: Tuy cư trú trong rừng Khổ hạnh mà gọi là người Thuận lưu, tuy ở trong cảnh giới của năm dục mà gọi là người Nghịch lưu.

Trong này có thí dụ, như người ôm hai cái bình đi xa, một cái bằng vàng, một cái bằng sành. Trượt chân mà ngã nhào, hai cái bình đều vỡ toang, lúc bấy giờ người ấy không tiếc cái bình vàng, mà tiếc cái bình sành, vì vậy than thở hối hận. Người ta hỏi nguyên cớ vì sao, người ấy trả lời đầy đủ việc ấy. Người ta lại hỏi vặn: Cái bình vàng vỡ toang mà ông có thể không tiếc, sao lại thương tiếc một cái bình sành? Người ấy lại trả lời rằng: Ông quả thật ngu si! Nguyên cớ thế nào? Bởi vì cái bình vàng vỡ rồi tuy mất đi hình dáng cái bình, nhưng không mất đi Thể của cái bình, trở về giao cho thợ vàng có thể làm cho giống như ban đầu, hoặc là hơn hẳn ban đầu; cái bình sành vỡ rồi thì hình dáng và Thể chất đều mất đi, tuy giao cho thợ gốm, mà thậm chí không có thể sửa chữa để làm vật dụng khác, huống là cái bình ban đầu hay sao? Vì thế cho nên nay tôi không than cho cái bình vàng mà tiếc cho cái bình sành!

Như vậy, bởi vì Thiên Thụ đã gieo trồng căn thiện thuận phần Giải thoát, cho nên tuy tạo ra nhiều điều ác phải sinh trong địa ngục, mà sẽ thành tựu Bồ-đề Độc giác, lợi căn hơn hẳn Xá-lợi-tử…, như cái bình vàng ấy vỡ toang rồi vẫn làm lại được; bởi vì Mãnh Hỷ Tử không gieo trồng căn thiện thuận phần Giải thoát, cho nên tuy lìa nhiễm của tám địa, sinh đến cõi trời Hữu Đảnh, mà cuối cùng rơi vào nẽo ác không có hạn kỳ giải thoát, như cái bình sành kia vỡ toang rồi không còn tác dụng.

Vì thế cho nên người chưa gieo trồng căn thiện thuận phần Giải thoát thì gọi là Thuận lưu, người đã gieo trồng căn thiện thuận phần Giải thoát thì gọi là Nghịch lưu.

Hỏi: Căn thiện thuận phần Giải thoát ở nơi thân hữu tình, tướng ấy rất vi tế, đã gieo trồng-chưa gieo trồng làm sao có thể biết được?

Đáp: Bởi vì tướng cho nên biết. Căn ấy có tướng gì? Đó là nếu lúc nghe Thiện hữu nói đến Chánh pháp, thì toàn thân nổi gai ốc, đau buồn rơi nước mắt, chán ngán lìa xa sinh tử, vui mừng hướng đến niết-bàn, sinh lòng kính yêu sâu sắc đối với Chánh pháp và Pháp sư. Nên biết là quyết định đã gieo trồng căn thiện thuận phần Giải thoát, nếu không có thể như vậy thì nên biết là chưa gieo trồng.

Trong này có thí dụ, như người gieo hạt giống ở trong thửa ruộng rồi, qua một thời gian dài sinh lòng nghi ngờ: Trong thửa ruộng này mình đã từng gieo hạt giống hay không? Lưỡng lự chưa quyết định, người bên cạnh nói rằng: Đâu đáng phân vân, nay ông chỉ cần dùng nước để tưới thấm, dùng phân để phủ lên, nếu hạt giống nảy mầm thì biết là đã gieo, không như vậy thì không gieo. Người ấy như lời nói ấy liền có được quyết định. Như vậy, hành giả tự mình nghi ngờ trong thân đã từng gieo chủng tử Giải thoát hay không? Lúc ấy Thiện hữu bèn nói cho biết rằng: Nay ông có thể đi đến nơi giảng pháp, nếu lúc nghe pháp mà toàn thân nổi gai ốc, đau buồn rơi nước mắt, cho đến sinh lòng kính yêu sâu sắc đối với Chánh pháp và Pháp sư, thì nên biết là đã gieo trồng chủng tử Giải thoát, không như vậy thì không gieo. Vì vậy nhờ vào tướng này mà có thể biết rõ ràng.

Hỏi: Tự trú là nghĩa gì?

Đáp: Không phải là làm cành nhánh cho đến làm dấu vết hướng về đối với các sinh loại cho đến các sinh tử, cũng không phải là làm cành nhánh cho đến làm dấu vết hướng về đối với diệt sinh loại cho đến diệt sinh tử, là nghĩa của tự trú. Đây gọi là phần ít việc cần làm đã hoàn thành, hoặc là tất cả những việc cần làm đã hoàn thành, ý thích dừng lại một lúc, hoặc là dừng lại hoàn toàn. Không giống như người Thuận lưu và Nghịch lưu, đối với sinh tử và Niết-bàn đều làm những việc đã làm, bởi vì ý thích không dừng lại cho nên gọi là tự trú, tức là nghĩa về trú trong phạm vi của mình.

Hỏi: Các A-la-hán thì lúc ấy tất cả là tự trú chăng? Giả sử tự trú thì lúc ấy tất cả là A-la-hán chăng?

Đáp: Các A-la-hán thì lúc ấy tất cả đều là tự trú. Lúc ấy là trú nơi nào? Đó là trú vào đoạn và biết khắp tất cả kiết không còn trong quả A-la-hán, lìa nhiễm của Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Có lúc tự trú mà không phải là A-la-hán, đó là Bất hoàn. Lúc ấy là trú nơi nào? Đó là trú vào đoạn và biết khắp năm kiết thuận phần dưới trong quả Bất hoàn, lìa nhiễm của cõi Dục. Như Đức Thế Tôn nói:

“Vĩnh viễn đoạn trừ năm phiền não, Học đầy đủ không pháp dẫn dắt,

Đạt được tự tại và căn Định, chính người này gọi là tự trú.”

Năm phiền não, đó là năm Cái và năm kiết thuận phần dưới, bởi vì Bất hoàn đã trừ hết, cho nên nói là vĩnh viễn đoạn trừ. Học đầy đủ, đó là Qủa tròn đầy-Căn đầy đủ chứ không phải là Đẳng chí đầy đủ. Không có pháp dẫn dắt, đó là nghiệp-phiền não của cõi Dục vốn không có thể dẫn dắt. Đạt được tự tại, đó là đạt được tâm tự tại, tức là đối với Tha tâm trí chứng thông đạt được nghĩa tự tại cứu cánh. Đạt được căn Định, đó là do thành tựu Tĩnh lự mà thâu nhiếp căn thuộc về Tam-mađịa. Chính người này gọi là tự trú, đó là trú vào đoạn và biết khắp năm kiết thuận phần dưới trong quả Bất hoàn, lìa nhiễm của cõi Dục.

Hỏi: Những người đạt được giới Vô học (cực cấm) thì lúc ấy tất cả đạt được bốn loại Thần túc (cực tích) chăng? Giả sử đạt được bốn loại Thần túc thì lúc ấy tất cả đạt được giới Vô học chăng?

Đáp: Những người đạt được giới Vô học thì lúc ấy tất cả đạt được bốn loại Thần túc.

Nguyên cớ thế nào? Bởi vì giới Vô học gọi là Cực cấm, bốn loại Thần túc gọi là Cực tích, cho nên có những người đã đạt được giới Vô học, nhất định cũng đến nơi đạt được bốn loại Thần túc.

Có lúc đạt được bốn loại Thần túc mà không phải là đạt được giới Vô học, đó là Bất hoàn. Như Đức Thế Tôn nói: “Thế nào là Tỳ kheo đạt được bốn loại Thần túc? Đó là vĩnh viễn đoạn và biết khắp đối với năm kiết thuận phần dưới.”

Nguyên cớ thế nào? Bởi vì Bất hoàn thì đã đạt được bốn loại Thần túc, mà chưa đạt được giới Vô học.

Hoặc đưa ra cách nói này: Những người đạt được bốn loại Thần túc thì lúc ấy tất cả đến bờ giải thoát (đáo bỉ ngạn) chăng? Giả sử đến bờ giải thoát thì lúc ấy tất cả đạt được bốn loại Thần túc chăng?

Đáp: Những người đạt được bốn loại Thần túc thì lúc ấy tất cả đến bờ giải thoát.

Nguyên cớ thế nào? Bởi vì tất cả kiết không còn thì gọi là bốn loại Thần túc. Như trong kinh nói: “Tích gọi là Niết-bàn, vĩnh viễn đoạn trừ năm kiết không còn luân hồi sinh tử thì gọi là đến bờ giải thoát.” Các A-la-hán, thân đã tác chứng thì gọi là đạt được bốn loại Thần túc, đã đoạn trừ năm kiết thuận phần trên, không còn luân hồi sinh tử trong ba cõi thì gọi là đến bờ giải thoát.

Có lúc đến bờ giải thoát mà không phải là đạt được bốn loại Thần túc, đó là Bất hoàn. Như Đức Thế Tôn nói: “Thế nào là Tỳ kheo gọi là đến bờ giải thoát?

Đó là vĩnh viễn đoạn và biết khắp đối với năm kiết thuận phần dưới.” Bởi vì đoạn kiết này, cho nên không còn luân hồi sinh tử trong cõi Dục, thì gọi là đến bờ giải thoát.

Lại nữa, A-la-hán lại tiếp tục đến bờ giải thoát đối với ba cõi, đó là lúc đoạn kiết do Kiến mà đoạn, Kiết do Tu mà đoạn của ba cõi. Bất hoàn cũng lại tiếp tục đến bờ giải thoát đối với cõi Dục, đó là lúc đoạn kiết do Kiến mà đoạn, Kiết do Tu mà đoạn của cõi Dục, mà bởi vì chưa đạt được Niết-bàn cho nên không gọi là đạt được bốn loại Thần túc.

Hoặc đưa ra cách nói này: Các A-la-hán thì lúc ấy tất cả không còn nguồn gốc chăng? Giả sử không còn nguồn gốc thì lúc ấy tất cả là A-la-hán chăng?

Đáp: Các A-la-hán thì lúc ấy tất cả không còn nguồn gốc.

Có lúc không còn nguồn gốc mà không phải là A-la-hán, đó là Bất hoàn. Như Đức Thế Tôn nói: “Thế nào là Tỳ kheo không còn nguồn gốc? Đó là vĩnh viễn đoạn và biết khắp đối với năm kiết thuận phần dưới.” Trong này, hai cách giải thích nói như đến bờ giải thoát.

Đến đâu thì gọi là Bồ-tát? Cho đến nói rộng ra.

Hỏi: Vì sao soạn ra phần luận này?

Đáp: Bởi vì muốn phân biệt nghĩa lý trong kinh. Như trong kinh nói: “Có một hữu tình, là chủng loại không ngu, là chủng loại thông tuệ, đó là Bồ-đề Tát-đỏa.” Trong kinh tuy nói ra điều này mà không phân biệt, đến đâu thì gọi là Bồ-tát, đạt được gì thì gọi là Bồ-tát? Kinh ấy là nơi nương tựa căn bản của luận này, điều gì mà kinh không giải thích thì nay cần phải giải thích, cho nên soạn ra phần luận này.

Lại nữa, bởi vì đoạn trừ tâm lý của người thật sự không phải là Bồ-tát mà khởi lên Tăng thượng mạn cho là Bồ-tát, cho nên soạn ra phần luận này.

Nguyên cớ thế nào? Bởi vì có những hữu tình đem một bữa ăn để bố thí, hoặc đem một cái áo, hoặc một chỗ ở, cho đến hoặc đem một cái tăm xỉa răng để bố thí, hoặc thọ trì một giới, hoặc tụng một bài kệ, hoặc một lần nhiếp tâm quán tưởng Bất tịnh…, mà không sợ hãi gì (sư tử hống) nói ra lời như vậy: Tôi nhờ vào điều nàycho nên nhất định sẽ làm Phật. Bởi vì đoạn trừ tâm niệm Tăng thượng mạn như vậy, hiển bày tuy trải qua ba Vô số kiếp tu đầy đủ các loại khổ hạnh khó thực hành, nếu như chưa tu tập về nghiệp của Diệu tướng thì hãy còn chưa nên nói mình là Bồ-tát, huống là người Tăng thượng mạn vô cùng kém cõi ấy hay sao? Vì vậy Bồ-tát cho đến lúc hết Vô số kiếp thứ nhất, tuy tu đầy đủ các loại khổ hạnh khó thực hành, mà chưa có thể quyết định tự biết mình làm Phật; lúc hết Vô số kiếp thứ hai, tuy có thể quyết định tự biết mình làm Phật, mà hãy còn chưa dám phát khởi tâm niệm không sợ hãi, nói là mình sẽ làm Phật; hết Vô số kiếp thứ ba, lúc đã tu tập về nghiệp của Diệu tướng, cũng quyết định biết mình sẽ làm Phật, cũng phát khởi tâm niệm nói lời không sợ hãi giống như Sư tử gầm lên: Ta sẽ làm Phật.

Hỏi: Đến đâu thì gọi là Bồ-tát?

Đáp: Đến lúc có thể tạo tác tăng trưởng về nghiệp dị thục của Diệu tướng.

Hỏi: Nếu các hữu tình phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác (A nậu đa la tam miệu tam bồ đề) luôn luôn không lui sụt thay đổi, thì từ đó đã thuận theo nói là Bồ-tát, vì sao cho đến lúc tạo tác tăng trưởng về nghiệp dị thục của Diệu tướng mới gọi là Bồ-tát? Đáp: Nếu quyết định đối với Bồ-đề và quyết định nơi đến thì mới gọi là Bồ-tát chân thật. Từ lúc mới phát tâm cho đến nay chưa tu về nghiệp của Diệu tướng, tuy quyết định đối với Bồ-đề, mà nơi đến chưa quyết định, thì chưa được gọi là Bồ-tát chân thật. Cần phải đến lúc tu tập về nghiệp của Diệu tướng, mới quyết định đối với Bồ-đề, nơi đến cũng quyết định. Vì thế cho nên đến đây mới gọi là Bồ-tát.

Lại nữa, lúc tu về nghiệp của Diệu tướng, hoặc là loài người hay là loài trời cùng nhận biết vị ấy là Bồ-tát, cho nên gọi là Bồ-tát; lúc chưa tu về nghiệp của Diệu tướng, chỉ có loài trời nhận biết, cho nên chưa được gọi là Bồ-tát chân thật.

Lại nữa, lúc tu về nghiệp của Diệu tướng, rời bỏ năm điều xấu kém-đạt được năm điều tốt đẹp:

  1. Rời bỏ các nẽo ác, luôn luôn sinh đến nẽo thiện.
  2. Rời bỏ gia đình hèn kém, luôn luôn sinh đến gia đình cao quý.
  3. Rời bỏ thân không phải là nam, luôn luôn đạt được thân nam.
  4. Rời bỏ căn không đầy đủ, luôn luôn đầy đủ các căn.
  5. Rời bỏ có lúc quên mất ý niệm, luôn luôn đạt được tự tánh sinh khởi ý niệm.

Vì vậy được gọi là Bồ-tát chân thật. Lúc chưa tu về nghiệp của Diệu tướng, cùng với điều này trái ngược nhau, cho nên không gọi là Bồ-tát chân thật.

Hỏi: Bồ-tát đạt được tự tánh sinh khởi ý niệm này có gì lợi ích?

Đáp: Bồ-tát đạt được tự tánh sinh khởi ý niệm này, lìa bỏ lỗi lầm của hữu tình, tích tập nghe nhiều hiểu rộng, tin sâu sắc đối với nhân quả, khéo thâu nhiếp đồ chúng, lời dạy-lời khuyên đã nói hoàn toàn không vô ích, tư lương Bồ-đề lại càng đầy đủ trọn vẹn, đây là lợi ích.

Hỏi: Đạt được gì thì gọi là Bồ-tát?

Đáp: Đạt được nghiệp dị thục của tướng.

Hỏi: Vì sao lại soạn ra phần luận này?

Đáp: Bởi vì muốn làm cho người nghi có được quyết định, đó là trước nói ra điều này: Đến lúc có thể tạo tác tăng trưởng về nghiệp dị thục của tướng, thì gọi là Bồ-tát. Đừng có sinh lòng nghi ngờ, tuy đến phần vị này thì gọi là Bồ-tát, mà tên gọi Bồ-tát hoặc là do chứng được những pháp thù thắng khác. Muốn hiển bày chính là do nghiệp dị thục của tướng mà được tên gọi Bồ-tát, chứ không do pháp khác, cho nên soạn ra phần luận này.

Hỏi: Nhờ vào Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác cho nên gọi là Bồ-đề Tát-đỏa, vì sao lúc chưa chứng được thì tên gọi này Tùy chuyển, và chứng được rồi thì không Tùy chuyển mà lại gọi là Phật-đà?

Đáp: Bởi vì lúc Tát-đỏa này chưa đạt được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, dùng ý thích tăng thượng luôn luôn tùy thuận Bồ-đề, hướng về Bồ-đề, gần gũi Bồ-đề, yêu thích Bồ-đề, tôn trọng Bồ-đề, khát ngưỡng Bồ-đề, cầu chứng-muốn chứng, không lơi lỏng-không dừng nghỉ, tâm ở trong Bồ-đề không có tạm thời rời bỏ, vì thế cho nên gọi là Bồ-đề Tátđỏa. Người ấy đã chứng được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác rồi, ý thích-gia hạnh đối với cầu mong Bồ-đề cũng đều dừng lại, chỉ đối với sự thành tựu về nghĩa Giác ngộ là hơn hẳn, tất cả si mê nhiễm ô hay không nhiễm ô đều vĩnh viễn đoạn trừ, cho nên Giác ngộ rõ ràng về tất cả các Trí cảnh (nhĩ diệm) thuộc Thắng nghĩa và Thế tục. Vì thế lại có năng lực Giác ngộ vô lượng hữu tình, tùy theo căn tánh và ý muốn mà làm lợi ích nhiều hơn. Bởi vì những nghĩa thù thắng về Giác ngộ như vậy, cho nên gọi là Phật-đà, chứ không gọi là Bồ-tát.

Lại nữa, Tát-đỏa là nghĩa của người dũng mãnh, lúc chưa đạt được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, luôn luôn tinh tiến dũng mãnh đối với Bồ-đề, cầu mong nhanh chóng chứng được, vì thế cho nên gọi là Bồ-đề Tát-đỏa. Đã đạt được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác rồi, thì tâm dũng mãnh đối với Bồ-đề dừng lại, chỉ đối với nghĩa Giác ngộ là hơn hẳn, cho nên gọi là Phật-đà, bởi vì có năng lực thành tựu Giác ngộ thù thắng nhất.

 

*******

Hỏi: Nghiệp dị thục của tướng lấy gì làm tự tánh, là nghiệp của thân, là nghiệp của ngữ, hay là nghiệp của ý?

Đáp: Ba nghiệp làm tự tánh, nhưng tăng mạnh về nghiệp của ý.

Có người nói: Chỉ lấy nghiệp của ý làm tự tánh, không phải là nghiệp của thân-ngữ. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì nghiệp của ý mạnh mẽ sắc bén, nghiệp của thân-ngữ thì chậm chạp.

Hỏi: Nghiệp dị thục của tướng là thuộc về ý địa, hay là năm Thức thân?

Đáp: Thuộc về ý địa, không phải là năm Thức thân. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì nghiệp này có phân biệt, cần phải quán sát rồi hiện hành, năm Thức không có phân biệt, cho nên tùy theo lực của cảnh giới mà khởi lên.

Hỏi: Nghiệp dị thục của tướng là gia hạnh đạt được, là lìa nhiễm đạt được, hay là do sinh đạt được?

Đáp: Chỉ là gia hạnh đạt được, không phải là lìa nhiễm đạt được, không phải là do sinh đạt được. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì nghiệp này cần phải ở ba Vô số kiếp tu các hạnh Ba-la-mật-đa, tác ý-công dụng-gia hạnh trong thân đầy đủ trọn vẹn, về sau mới đạt được.

Có người nói: Nghiệp này gia hạnh đạt được, cũng do sinh đạt được, nhưng không phải là lìa nhiễm đạt được.

Hỏi: Nghiệp dị thục của tướng là do Văn mà thành, do Tư mà thành, hay là do Tu mà thành?

Đáp: Chỉ do Tư mà thành, không phải là Văn, không phải là Tu. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì nghiệp này thù thắng cho nên không phải là do Văn mà thành, hệ thuộc cõi Dục cho nên không phải là do Tu mà thành.

Có người nói: Nghiệp này bao gồm do Văn-Tư mà thành, nhưng không phải là do Tu mà thành.

Hỏi: Nghiệp dị thục của tướng khởi lên ở nơi nào?

Đáp: Ở cõi Dục chứ không phải là cõi khác, ở nẽo người chứ không phải là nẽo khác, ở châu Thiệm Bộ chứ không phải là châu khác. Dựa vào thân nào mà khởi lên, thì dựa vào thân nam khởi lên chứ không phải là thân nữ… Khởi lên vào lúc nào, là lúc Đức Phật xuất thế chứ không phải là thời gian không có Phật. Duyên vào cảnh nào mà khởi lên, là hiện rõ trước mắt duyên với Phật mà khởi lên Tư nguyện thù thắng chứ không duyên với cảnh khác.

Hỏi: Ba mươi hai tướng Đại trượng phu, là do một Tư dẫn dắt, hay là nhiều Tư? Nếu như vậy thì có gì sai? Nếu do một Tư dẫn dắt, thì vì sao một ít nghiệp có thể dẫn đến nhiều quả? Luận Thi Thiết nói lại hiểu thế nào? Như nói: “Nghiệp loại như vậy có thể cảm đến tướng bằng phẳng khéo an trú dưới lòng bàn chân, cho đến nghiệp loại như vậy có thể cảm đến tướng nhục kế (ô-sắt-nị-sa) trên đỉnh đầu.” Nếu do nhiều Tư dẫn dắt, thì vì sao một Chúng đồng phần không phân biệt mà lại dẫn dắt phân biệt?

Đáp: Có người nói: Do một Tư dẫn dắt.

Hỏi: Vì sao một ít nghiệp có thể dẫn đến nhiều quả?

Đáp: Trước dùng một Tư để dẫn dắt, sau dùng nhiều Tư để đầy đủ trọn vẹn, vì thế cho nên không có lỗi; ví như người vẽ tranh, trước dùng một màu để làm mô phỏng, sau bổ sung nhiều màu sắc.

Hỏi: Luận Thi Thiết nói lại hiểu thế nào?

Đáp: Luận ấy nói về nghiệp đầy đủ trọn vẹn, không nói về nghiệp dẫn dắt, cho nên không có lỗi. Nhưng ba mươi hai tướng Đại trượng phu là quả của nghiệp đầy đủ trọn vẹn Chúng đồng phần, không phải là quả của nghiệp dẫn dắt Chúng đồng phần.

Có người nói: Do nhiều Tư dẫn dắt.

Hỏi: Vì sao một Chúng đồng phần không phân biệt mà lại dẫn dắt phân biệt?

Đáp: Lúc bấy giờ Bồ-tát luôn luôn nhất tâm chú ý vào một sở y-sở duyên-hành tướng có nhiều Tư chuyển đổi, trong đó có Tư có thể cảm đến tướng bằng phẳng khéo an trú dưới lòng bàn chân, cho đến có Tư có thể cảm đến tướng nhục kế trên đỉnh đầu.

Nói như vậy thì ba mươi hai Tư dẫn dắt ba mươi hai tướng Đại trượng phu, mỗi một tướng lại dùng nhiều nghiệp để làm đầy đủ trọn vẹn.

Hỏi: Bồ-tát đã khởi lên ba mươi hai Tư, ở trong các tướng thì trước hết là dẫn dắt tướng nào?

Đáp: Có người nói: Trước hết là dẫn dắt tướng bằng phẳng khéo an trú dưới lòng bàn chân, sau mới dẫn dắt những tướng khác, bởi vì trước là an trú bàn chân, sau mới đến những nơi khác.

Có người nói: Trước hết là dẫn dắt tướng mắt xanh biếc, bởi vì trước là dùng ánh mắt hiền từ nhìn thế gian. Nói như vậy thì điều này không nhất định, tùy theo duyên hợp với tướng này thì dẫn dắt tướng này.

Ba mươi hai tướng Đại trượng phu:

1. Tướng khéo an trú dưới lòng bàn chân(túc hạ thiện trú tướng), đó là dưới lòng bàn chân của Đức Phật bằng phẳng không lồi không lõm, vào lúc đặt chân đều ấn xuống chạm vào mặt đất. Vì vậy chỉ riêng tướng dấu chân của Đức Phật là rõ ràng, tâm địa xấu ác muốn xóa đi nhưng cuối cùng không thể mất được. Những người tại gia nếu có tướng này, thì chắc chắn là vị vua lãnh đạo đất nước. Những người xuất gia nếu có tướng này, thì chắc chắn làm bậc Pháp vương hóa độ tất cả.

2. Tướng bánh xe ngàn nan hoa (thiên bức luân tướng), đó là ở dưới hai bàn chân của Đức Phật có hoa văn, như bánh xe ngàn nan hoa đầy đủ trục-vành, tròn đầy rõ ràng vô cùng tuyệt vời. Thiên tử Diệu Nghiệp tuy rất tác ý nhưng không thể nào mô phỏng mà hóa hiện khác biệt. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì sự việc do Thiên tử Diệu Nghiệp hóa hiện là do trí vô phú vô ký đã dẫn dắt, mà tướng này là do nghiệp hoàn toàn thanh tịnh đã dẫn dắt.

Lại nữa, việc làm của Thiên tử ấy là do trí sinh ra đạt được đã dẫn dắt, mà tướng này là do trí gia hạnh tăng thượng đã dẫn dắt.

Lại nữa, việc làm của Thiên tử ấy là do trí đã luyện tập trong một đời dẫn dắt, mà tướng này là do trí đã luyện tập qua vô lượng đời dẫn dắt.

3. Tướng ngón tay thon dài (chỉ tiêm trường tướng), đó là ngón tay của Đức Phật thon dài nhỏ mà từ từ nhọn, lóng ngón tay không hiện bày thô thiển, khép lại thì không có khe hở, xếp lại-rải ra thích hợp, ở giữa sáng bóng tròn đầy.

4. Tướng gót chân tròn cao (túc cân viên trường tướng), đó là gót chân của Đức Phật tròn cao, rộng thẳng đoan nghiêm.

5. Tướng tay chân mịn màng mềm mại (thủ túc tế nhuyễn tướng), đó là tay chân của Đức Phật mịn màng mềm mại như tơ Đố-la.

6. Tướng màng da mềm giữa các ngón tay-chân (thủ túc võng man tướng), đó là giữa các ngón tay-chân của Đức Phật đều có màng da mềm, giống như bàn chân của ngỗng chúa, nếu lúc khép lại thì màng da không hiện rõ mà không có nếp nhăn kéo dài, lúc mở ra thì hiện rõ mà không có nếp co xiết lại.

7. Tướng cỏ chân tròn và dày (túc phu đoan hậu tướng), đó là cổ chân của Đức Phật tròn và dày, hướng về các ngón chân đổ sang hai bên, đứng thẳng xứng với gót chân, bước chân thì không rộng, lòng bàn chân như màu hoa sen hồng, phía trong màng da như đường vân của cây gỗ, móng chân như màu đồng đỏ hơi nhạt, phía ngoài màng da là màu vàng ròng, lông mịn màu đen pha hồng tươi sáng như Phệ lưu ly, cho nên hai chân của Đức Phật giống như đôi giầy quý, trang nghiêm bằng nhiều vật báu, sáng ngời thật vi diệu.

8. Tướng bắp đùi Ê-nê-da (ê-nê-da chuyên tướng), đó là bắp đùi của Đức Phật tròn thẳng từ từ xuống dưới thon nhỏ, như bắp đùi của Nai chúa Ê-nê-da.

9. Tướng nam căn giấu kín (thế phong tàng mật tướng), đó là nam căn của Đức Phật giấu kín giống như Ngựa chúa.

Nếu như vậy thì làm sao hữu tình đã hóa độ (sở hóa) nhìn thấy được? Có người nói: Đức Thế Tôn thương xót hữu tình đã hóa độ cho nên phương tiện mà thị hiện.

Có người nói: Đức Thế Tôn hóa làm âm tàng thù diệu như voi ngựa, nói với hữu tình đã hóa độ rằng: Như ông, Ta cũng như vậy.

10. Tướng thân thể đầy đủ trọn vẹn(thân phần viên mãn tướng), đó là thân thể của Đức Phật đầy đủ trọn vẹn như cây Nặc-cù-đà, như từ phần rốn đến đỉnh đầu, như vậy từ phần rốn đến chân, trên dưới tương xứng với nhau.

11. Tướng lông toàn thân hướng lên trên (thân mao thượng mị tướng).

12. Tướng lỗ chân lông mọc một sợi lông (khổng sinh nhất mao tướng).

13. Tướng lông toàn thân xoay về phía phải (thân mao hữu hoàn tướng), đó là các lỗ chân lông toàn thân của Đức Phật đều mọc một sợi lông, màu sắc sáng bóng đen biếc như Phệ lưu ly, uyển chuyển xoay về phía phải, đầu sợi lông hướng lên trên. Nguyên cớ mỗi một lỗ chân lông chỉ có một sợi lông, là bởi vì lúc làm Bồ-tát không nói pháp tùy tiện hỗn loạn.

14. Tướng thân màu vàng ròng (thân chân kim sắc tướng), đó là thân thể của Đức Phật màu vàng ròng, ánh lên làm mờ nhạt ánh sáng của tất cả các loại vàng ở thế gian, khiến cho không còn hiện rõ. Như người thời nay đem các vật dụng bằng nhôm-đồng…, đặt ở bên cạnh vật dụng bằng vàng của thời nay, thì ánh sáng không còn hiện rõ; vật dụng bằng vàng của thời nay, đem đến bên cạnh vật dụng bằng vàng thời Đức Phật tại thế, thì ánh sáng không còn hiện rõ; vật dụng bằng vàng thời Đức Phật tại thế, nếu đem đến bên cạnh vàng Nại-đà của châu Thiệm Bộ và đá vàng lót đường của Chuyển Luân Vương trong biển lớn, thì ánh sáng không còn hiện rõ; vàng và đá vàng này nếu đem đến bên cạnh vàng của bảy núi vàng, thì ánh sáng không còn hiện rõ; vàng của bảy núi vàng đem đến bên cạnh vàng của núi chúa Diệu Cao, thì ánh sáng không còn hiện rõ; vàng của núi chúa Diệu Cao đem đến bên cạnh đồ vật bằng vàng trang nghiêm của cõi trời Tam Thập Tam, thì ánh sáng không còn hiện rõ. Như vậy lần lượt chuyển đổi cho đến đồ vật bằng vàng trang nghiêm của cõi trời Lạc Biến Hóa, đem đến bên cạnh đồ vật bằng vàng trang nghiêm của cõi trời Tha Hóa Tự Tại, thì ánh sáng không còn hiện rõ; đồ vật bằng vàng trang nghiêm của cõi trời Tha Hóa Tự Tại này, nếu đem đến bên cạnh thân vàng của Đức Phật, thì ánh sáng không còn hiện rõ. Vì thế cho nên thân màu vàng ròng của Đức Phật là thù thắng nhất, ánh lên làm mờ nhạt ánh sáng của tất cả các loại vàng ở thế gian.

15. Tướng ánh sáng thường xuyên tỏa ra một Tầm (thường quang nhất tầm tướng), đó là xung quanh toàn thân của Đức Phật thường xuyên có ánh sáng, mỗi phía đều một Tầm, ngày đêm luôn luôn soi chiếu.

16. Tướng làn da mịn màng trơn bóng (bì phu tế hoạt tướng), đó là làn da của Đức Phật mịn màng trơn bóng, bụi-nước không dính được, như Phệ lưu ly và cánh hoa sen, giả sử Đức Phật đưa chân giẫm vào núi bụi, làn gió Phệ-lam-bà từ trong đó cuốn bụi tung lên, muốn làm cho thân của Đức Phật và dưới chân của Đức Phật có một hạt bụi dính vào, thì điều này không hề có.

17. Tướng bảy nơi tròn đầy (thất xứ sung mãn tướng), đó là bảy nơi của Đức Phật tròn đầy, ở thân thể khác thì những nơi này là ít thêm; hai tay-hai chân-hai vai và đỉnh đầu, đó là bảy nơi.

18. Tướng thân hình cao lớn và thẳng (thân quảng hồng trực tướng), đó là thân hình của Đức Phật cao lớn và thẳng, vô cùng đoan nghiêm mẫu mực, mà không nghiêng-không còng, cũng không lệch về một bên.

19. Tướng thân phần trên như Sư tử (sư tử thượng thân tướng), đó là phần ngực của Đức Phật vuông rộng uy nghiêm, như nửa thân phần trên của Sư tư chúa.

20. Tướng bả vai tròn đầy (kiên bác viên mãn tướng), đó là bả vai của Đức Phật tròn đầy, không phải là các Lực sĩ trẻ trung khỏe mạnh mà có thể sánh bằng.

21. Tướng đứng thẳng duỗi tay xoa đến đầu gối (lập thủ ma tất tướng), đó là Đức Phật đứng thẳng duỗi tay xoa đến đầu gối của mình.

22. Tướng cằm tròn như Sư tử (sư tử hàm luân tướng), đó là cằm của Đức Phật tròn và rộng, đẹp như Sư tử chúa.

23. Tướng đầy đủ bốn mươi chiếc răng (cụ tứ thập xỉ tướng).

24. Tướng răng đều đặn và dày (xỉ tề bình mật tướng).

25. Tướng răng tươi sáng có ánh sáng tỏa ra (nha xỉ tiên bạch hữu quang minh tướng), đó là Đức Phật có đủ bốn mươi chiếc răng, tất cả đều đặn như nhau, ở giữa không có kẽ hở dù chỉ bằng mảy lông, màu sắc của răng tươi sáng trắng ngần, ánh lên sáng ngời như núi Tuyết chúa.

Hỏi: Người khác chỉ có ba mươi hai chiếc răng, mà nói trong thân ấy có một trăm lẻ ba đốt xương; Đức Phật có đủ bốn mươi chiếc răng, vì sao cũng nói trong thân Đức Phật có một trăm lẻ ba đốt xương, mà không tăng thêm?

Đáp: Xương phần đầu của loài người do chín phần hợp thành, xương phần đầu của Đức Thế Tôn chỉ có một đoạn, vì vậy cùng có một trăm lẻ ba đốt xương.

26. Tướng đạt được Vị giác cao nhất(đắc tối thượng vị tướng), đó là bởi vì phần lưỡi của Đức Phật thanh tịnh, cho nên khiến những đồ ăn thức uống chuyển thành mùi vị tuyệt vời nhất.

Có người nói: Trên phần lưỡi của Đức Phật có chủng tử của tất cả Vị giác thù thắng tuyệt vời vừa ý ở thế gian, nếu lúc các vật đắng cay chua mặn… đưa đến phần lưỡi, thì những vật xen tạp này đều chuyển thành mùi vị tuyệt vời nhất.

Có người nói: Phần lưỡi của Như Lai có thế lực như vậy, nếu các loại đồ ăn thức uống đưa đến phần lưỡi, ở trong đó loại nào thuộc về tánh tuyệt vời vừa ý thì liền sinh ra Thiệt thức, loại nào thuộc về tánh thô kệch thì không sinh ra Thiệt thức.

Có người nói: Trong yết hầu của Đức Phật có hai tuyến sữa, nếu lúc ăn uống thì sữa ấy tiết ra, pha lẫn vào các loại đồ ăn thức uống, làm cho đều thành mùi vị tuyệt vời nhất.

Nhưng ở trong này, bởi vì Thiệt căn thanh tịnh, làm cho mùi vị chuyển thành thù thắng, lý này thích hợp như vậy.

1. Tướng lưỡi rộng dài (quảng trường thiệt tướng), đó là tướng lưỡi của Đức Phật mỏng mềm rộng dài, lúc đưa ra thì che kín mặt đến phần tai và chân tóc, nếu trở vào lại trong miệng thì ở trong miệng không có gì chướng ngại.

2. Tướng mắt xanh biếc (mục cam thanh tướng), đó là đôi mắt của Đức Phật dài và rộng, màu mắt xanh biếc trong sáng, như cánh hoa sen xanh Tô-xà-đa.

3. Tướng lông mi như Ngưu vương (ngưu vương tiệp tướng), đó là lông mi của Đức Phật phân bố khéo léo tuyệt vời giống như Ngưu vương.

4. Tướng trên đỉnh đầu có nhục kế (ô-sắt-nị-sa tướng), đó là búi tóc trên đỉnh đầu của Đức Phật do xương và thịt hợp thành, lượng bằng nắm tay úp xuống, đen tuyền tròn trịa rất tuyệt vời.

5. Tướng lông trắng giữa chặng mày (mi gian bạch hào tướng), đó là lông trắng giữa chặng mày của Đức Phật dai khoảng nửa Tầm, uyển chuyển xoay về phía phải, tỏa ánh sáng trong suốt.

6. Tướng có được âm thanh cõi Phạm (đắc Phạm âm thanh tướng), đó là ở trong yết hầu của Đức Phật có đại chủng tuyệt diệu, có thể phát ra Phạm âm hòa nhã vừa ý, như chim Yết-la-tần-ca, và phát ra tiếng sấm rền chấn động rất xa, như tiếng trống của Đế Thích. Âm thanh như vậy có đủ tám công đức:

  1. Vang vọng rất xa.
  2. Hòa nhã.
  3. Rõ ràng.
  4. Êm tai.
  5. Đi vào tâm.
  6. Sinh ra niềm vui.
  7. Dễ hiểu.
  8. Không hề chán.

Hỏi: Tướng là nghĩa gì?

Đáp: Nghĩa về ngọn cờ là nghĩa của tướng, nghĩa về thù thắng là nghĩa của tướng, nghĩa về điềm lành là nghĩa của tướng.

Hỏi: Vì sao tướng Đại trượng phu chỉ có ba mươi hai chứ không tăng-không giảm?

Đáp: Hiếp Tôn giả nói: “Nếu tăng hay là giảm thì cũng đều sinh tâm nghi ngờ, chỉ có ba mươi hai cũng không trái với pháp tướng.”

Có người nói: Bởi vì ba mươi hai là số tốt lành mà thế gian cùng chấp nhận, cho nên không có tăng-giảm.

Có người nói: Nếu ba mươi hai tướng trang nghiêm thân của Đức Phật thì đối với thế gian là thù thắng nhất không có gì sánh bằng, nếu phải giảm đi thì sẽ thiếu hụt, nếu lại tăng thêm thì cũng tạp loạn, đều không phải là thù thắng, cho nên chỉ có bấy nhiêu. Như Đức Phật thuyết pháp không có thể tăng-giảm, tướng của Đức Phật cũng như vậy, cho nên không có giảm gì có thể tăng, không có tăng gì có thể giảm.

Hỏi: Tám mươi vẻ đẹp(tùy hảo) là ở nơi nào?

Đáp: Ở trong các tướng, tùy theo các tướng chuyển đổi để trang nghiêm thân của Đức Phật khiến cho tốt đẹp tuyệt diệu nhất.

Hỏi: Tướng và vẻ đẹp không làm chướng ngại lẫn nhau chăng?

Đáp: Không phải như vậy, tướng và vẻ đẹp lại làm biểu lộ rõ lẫn nhau. Như hoa trong rừng làm cho các cây biểu lộ rõ, thân Đức Phật trang nghiêm bằng tướng tốt và vẻ đẹp cũng như vậy. Lại như núi vàng tô điểm nhiều vật báu xen lẫn nhau, thân Đức Phật uy nghiêm sáng ngời tuyệt vời cũng như vậy. Bởi vì thân Như Lai vô cùng thanh tịnh sáng ngời, cho nên các vật tốt lành đều hiện rõ trong đó, như gương Chí-na đã mài hết sức trong suốt, tùy theo hình ảnh cảnh tượng của vật xa-gần đều hiện rõ, thân Đức Phật cũng như vậy. Vì thế cho nên tất cả các ma-ngaọi đạo ôm ấp tâm niệm xấu ác, lúc đến nơi Đức Phật thì tất cả đều chiêm ngưỡng, nhìn không thỏa mãn đi vòng theo phía phải mà lui ra.

Hỏi: Bồ-tát đối với thân vì có Ái-Mạn mà trang nghiêm chăng?

Đáp: Không phải như vậy.

Hỏi: Vì sao?

Đáp: Bồ-tát vì muốn làm cho tâm lý kiêu mạn dựa vào sắc tướng của thế gian phải hàng phục, người không tiếp nhận hóa độ khiến cho tiếp nhận hóa độ, cho nên dùng các tướng tốt và vẻ đẹp mà trang nghiêm thân mình.

Lại nữa, bởi vì hiển bày pháp vốn có của Đức Phật đều là thù thắng, đó là sắc tướng-sức lực, giòng họ-quyến thuộc, danh dự-tài sản, giàu có-tự tại, trí tuệ-nhận thức-công đức thảy đều thù thắng. Nếu không như vậy, thì pháp đã nói ra không có người nào tin nhận. Vì thế cho nên Bồ-tát trang nghiêm thân mình.

Lại nữa, bởi vì muốn làm khí cụ nương tựa cho quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì công đức thù thắng quyết định nương tựa vào thân thù thắng, nghĩa của quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác ở vị lai ấy, nói với Bồ-tát rằng: Ông muốn khiến cho tôi ở trong thân, thì trước hết phải làm cho thân ông thanh tịnh thù thắng, dùng các tướng tốt và vẻ đẹp mà trang nghiêm thân mình, nếu không như vậy thì tôi cũng không thể nào sinh vào trong thân của ông. Ví như có người muốn cưới Công chúa của vua đón về nhà mình, Công chúa ấy bí mật sai sứ giả đến nói cho người kia biết rằng: Ông muốn để cho Ta đến nhà, thì trước hết cần phải vẩy nước quét dọn, trừ sạch mọi rác rưởi dơ bẩn, treo đèn kết lọng, đốt hương rải hoa, trang nghiêm đủ loại, thì Ta mới có thể đến, nếu không như vậy thì Ta cũng không thể nào đến nhà ông được. Vì thế cho nên Bồ-tát trang nghiêm thân mình.

Hỏi: Bồ-tát tạo tác tăng trưởng nghiệp dị thục của tướng rồi, trong thời gian ấy hoặc có lúc làm Chuyển Luân Vương, là chính nghiệp dị thục của tướng đã tu, cảm đến quả của tướng ấy, hay là nghiệp khác?

Đáp: Có người nói: Tức là nghiệp dị thục của tướng đã tu, bởi vì nghiệp này có công năng rộng lớn, giả sử đến nay luôn luôn làm Luân Vương, mà thế lực của nghiệp ấy cũng không hết.

Nói như vậy thì đó là bởi vì nghiệp khác. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì Bồ-tát tu nghiệp dị thục của tướng đều vì thọ nhận quả thù thắng ở thân sau cuối chứ chưa thọ dụng ngay, nhưng dựa vào nghiệp ấy làm tăng thượng tạo ra nghiệp thiện khác cảm đến quả của tướng Luân Vương. Ví như vị Trưởng giả rất giàu có, nhiều những châu báu, trong đó có ngọc quý rất giá trị mà chưa đem ra sử dụng ngay, những vật có giá trị bình thường thì tùy lúc để trao đổi; điều ấy cũng như vậy.

Hỏi: Ba mươi hai tướng mà Bồ-tát đã đạt được cùng với tướng của Luân Vương có gì sai biệt?

Đáp: Tướng mà Bồ-tát đã đạt được, có bốn điều hơn hẳn:

  1. Long trọng.
  2. Rõ ràng.
  3. Tròn đầy.
  4. Nơi đạt được.

Lại nữa, có năm điều hơn hẳn:

  1. Nơi đạt được.
  2. Rất đoan nghiêm.
  3. Dáng vẻ sâu sắc.
  4. Tùy thuận với trí thù thắng.
  5. Tùy thuận với lìa nhiễm.

Hỏi: Bồ-tát tạo tác tăng trưởng nghiệp dị thục của tướng rồi, lúc chưa đến thân sau cuối, đối với các hữu tình có tướng khác nhau có thể nhân biết hay không?

Đáp: Có, đó là sinh trong giòng họ tôn quý, hình dáng diện mạo đoan nghiêm, thân thể trượng phu đầy đủ, các căn trọn vẹn không thiếu, có thể nhớ lại đời trước, tin sâu sắc vào nhân quả, ưa thích học nhiều hiểu rộng, tôn trọng ngưỡng mộ Chánh pháp, trí tuệ nhận thức sắc bén, có biện tài rất thù thắng, chí tánh điều hòa mềm mỏng, âm thanh ngôn ngữ hòa nhã, việc làm đã được quyết định, hoàn toàn không có lui sụt, thấy người khác chịu đau khổ, lòng dạ không thể chịu nổi, cần phải tận tình cứu giúp, tất cả công đức đã tu, đều hồi hướng cho Bồ-đề, mang lại niềm vui cho hữu tình, làm nhiều điều lợi ích mà không mong cầu đền đáp. Như vậy gọi là tướng của Bồ-tát ấy.

Hỏi: Như trong kinh nói: “Mỗi một tướng của Đức Phật có trăm phước trang nghiêm.” Thế nào gọi là trăm phước?

Đáp: Trong này, trăm Tư gọi là trăm phước. Thế nào gọi là trăm Tư? Đó là như lúc Bồ-tát tạo tác tăng trưởng về nghiệp của tướng khéo an trú dưới lòng bàn chân (tướng thứ nhất), trước hết khởi lên năm mươi Tư tu sửa thân khí làm cho thanh tịnh điều hòa mềm mỏng, tiếp đến khởi lên một Tư đích thực dẫn dắt tướng ấy, cuối cùng lại khởi lên năm mươi Tư khiến cho tướng ấy được tròn đầy. Ví như nông phu trước hết sửa sang bờ ruộng, tiếp đến gieo hạt giống xuống, sau mới dùng phânnước mà chăm bón-tưới thấm; điều ấy cũng như vậy. Như nghiệp của tướng khéo an trú dưới lòng bàn chân, có trăm Tư trang nghiêm như vậy, cho đến nghiệp của tướng trên đỉnh đầu có nhục kế (tướng thứ ba mươi), cũng lại như vậy. Vì vậy cho nên nói: Mỗi một tướng của Đức Phật có trăm phước trang nghiêm.

Hỏi: Thế nào là năm mươi Tư?

Đáp: Dựa vào mười nghiệp đạo đều có năm Tư. Đó là dựa vào nghiệp đạo lìa bỏ giết hại có năm Tư:

  1. Tư về lìa bỏ giết hại.
  2. Tư về khuyến khích dẫn dắt.
  3. Tư về khen ngợi tốt lành.
  4. Tư về tùy thuận vui vẻ.
  5. Tư về hồi hướng.

Nghĩa là hồi hướng công đức đã tu quy về Bồ-đề; cho đến Chánh kiến cũng như vậy, đó gọi là năm mươi Tư.

Có người nói: Dựa vào mười nghiệp đạo đều khởi lên năm phẩm Tư về thiện là Hạ-Trung-Thượng-Thượng Thắng và Thượng Cực, như tu xen lẫn Tĩnh lự.

Có người nói: Dựa vào mười nghiệp đạo đều khởi lên năm Tư:

  1. Gia hạnh thanh tịnh.
  2. Căn bản thanh tịnh.
  3. Dấy khởi về sau thanh tịnh.
  4. Không phải là do Tầm mà hại.
  5. Nghĩ về thâu nhiếp tiếp nhận.

Có người nói: Duyên với một tướng của Đức Phật khởi lên năm mươi sát-na, chưa từng luyện tập về Tư nối tiếp nhau mà chuyển.

Hỏi: Như vậy trăm phước thì lượng của mỗi một phước là thế nào?

Đáp: Có người nói: Nếu nghiệp có thể cảm đến địa vị Chuyển Luân Vương, thì đối với bốn châu lớn tự tại mà chuyển, là lượng của một phước.

Có người nói: Nếu nghiệp có thể cảm đến địa vị Thiên Đế Thích, thì đối với hai chúng trời tự tại mà chuyển, là lượng của một phước.

Có người nói: Nếu nghiệp có thể cảm đến địa vị Thiên vương cõi trời Tha Hóa Tự Tại, thì đối với tất cả chúng trời cõi Dục tự tại mà chuyển, là lượng của một phước.

Có người nói: Nếu nghiệp có thể cảm đến địa vị Thiên vương cõi trời Đại Phạm, thì đối với Tĩnh lự thứ nhất và chúng trời cõi Dục tự tại mà chuyển, là lượng của một phước.

Có người nói: Phước của Thiên vương cõi trời Đại Phạm, vị đứng đầu thế giới Sa-ha khuyền thỉnh Như Lai chuyển pháp luân, là lượng của một phước.

Hỏi: Lúc vị ấy thỉnh Đức Phật là tâm vô phú vô ký hệ thuộc cõi Dục, vì sao gọi là phước?

Đáp: Có người nói: Vị ấy ở cõi Phạm Thế, lúc sắp đến thỉnh cầu thì trước hết khởi lên tâm thiện như vậy: Mình sẽ làm lợi ích to lớn cho các hữu tình, thỉnh cầu Đức Phật chuyển Pháp luân. Lúc bấy giờ thì gọi là đạt được phước của cõi Phạm ấy.

Điều này không hợp lý. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì không phải là lúc chưa làm mà đã thành tựu. Nói như vậy thì vị ấy thỉnh cầu Đức Phật rồi trở về đến cung cõi Phạm, sau đó lúc Đức Phật chuyển Pháp luân thì Địa thần xướng lên trước, như vậy âm thanh lần lượt chuyển tiếp lên đến cung cõi Phạm, Phạm Vương nghe rồi hoan hỷ tự mừng cho mình, phát tâm thuần tịnh mà sinh niềm tùy hỷ, lúc bấy giờ mới gọi là thành tựu phước này.

Có người nói: Lúc thế giới thành lập, tất cả hữu tình do lực tăng thượng của nghiệp, có thể cảm đến ba ngàn Đại thiên thế giới, là lượng của một phước.

Có người nói: Trừ ra Bồ-tát tiếp cận Phật địa, còn lại tất cả hữu tình, vốn có nghiệp có thể cảm đến quả giàu có vui sướng, là lượng của một phước.

Có người nói: Trong này, lượng của mỗi một phước nên dùng thí dụ để hiển bày, giả sử tất cả hữu tình đều sinh ra mù lòa, có một hữu tình dùng nhiều phương tiện khiến cho cùng có được mắt sáng, phước của hữu tình ấy là lượng của một phước.

Lại nữa, giả sử tất cả hữu tình đều uống phải thuốc độc, mê loạn sắp chết, có một hữu tình làm cho chất độc đều trừ hết, tâm được tỉnh táo, phước của hữu tình ấy là lượng của một phước.

Lại nữa, giả sử tất cả hữu tình đều bị trói chặc, sắp bị mất mạng, có một hữu tình làm cho tất cả được giải thoát, cùng lúc cứu được mạng sống, phước của hữu tình ấy là lượng của một phước.

Lại nữa, giả sử tất cả hữu tình phá giới-phá kiến, có một hữu tình có thể làm cho cùng lúc đầy đủ giới-kiến, phước của hữu tình ấy là lượng của một phước.

Lời bình: Như vậy đã nói đều là ý thích thuần tịnh, phương tiện ca ngợi lượng phước của Bồ-tát, nhưng tất cả đều chưa đạt được ý nghĩa thật sự.

Nghĩa như thật thì mỗi một lượng phước Bồ-tát đã khởi lên là vô lượng vô biên, bởi vì Bồ-tát trải qua ba Vô số kiếp tích tập tròn đầy các Ba-la-mật-đa rồi, cho nên dẫn đến Tư nguyện vô cùng to lớn, chỉ riêng Đức Phật mới có thể biết, không phải là người khác mà suy lường được.

Như vậy đã nói về lượng phước to lớn, có đầy đủ trăm phước trang nghiêm cho một tướng, lần lượt chuyển tiếp cho đến ba mươi hai tướng, đều có đủ trăm phước. Đức Phật dùng ba mươi hai tướng có trăm phước trang nghiêm như vậy, và tám mươi vẻ đẹp tùy thuộc để trang nghiêm thân ấy, cho nên tôn quý nhất-thù thắng nhất ở trên cõi trời-giữa loài người.

Hỏi: Nghiệp dị thục của tướng này tu tập tròn đầy trải qua thời gian bao lâu?

Đáp: Phần nhiều trải qua một trăm Đại kiếp, chỉ trừ ra Bồ-tát Thích-ca, bởi vì Bồ-tát Thích-ca vô cùng tinh tiến cho nên vượt lên trên chín Đại kiếp, chỉ trải qua chín mươi mốt kiếp tu tập tròn đầy, liền đạt được Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Sự việc ấy như thế nào? Như trong kinh nói: “Quá khứ có Đức

Phật danh hiệu là Để-sa, hoặc gọi là Bổ-sa. Đức Phật ấy có hai đệ tử Bồ-tát chịu khó tu Phạm hạnh, một người tên gọi Thích-ca Mâu-ni, một người tên gọi Mai-đát-lệ-dược. Lúc bấy giờ Đức Phật ấy quán xét hai đệ tử, căn của người nào chín muồi trước, liền biết như thật là Từ Thị chín muồi trước, Năng Thúc chín muồi sau. Lại quán xét sự hóa độ hữu tình của hai người, căn của người nào chín muồi trước, vẫn biết như thật là sự hóa độ của Thích-ca sẽ chín muồi trước. Biết rồi liền nghĩ: Nay Ta làm thế nào khiến cho cơ cảm ấy hội ngộ với nhau? Nhưng làm cho một người nhanh chóng chín muồi thì dễ, chứ không phải là làm cho nhiều người. Dấy lên ý nghĩ này rồi, liền bảo với Thích-ca: Ta muốn đi vào núi, ông có thể đi theo. Lúc bấy giờ Đức Phật ấy lấy tọa cụ (ni sư đàn), theo con đường đi đến trước, đã đến trên núi, đi vào khám thờ bằng Phệ lưu ly, trải tọa cụ ra, ngồi kiết già mà nhập Định Hỏa giới, trải qua bảy ngày đêm cảm thọ niềm hỷ lạc vi diệu, uy quang rực rỡ. Thích-ca trong chốc lát cũng đến trên núi, đi khắp nơi tìm Đức Phật, như bê con tìm kiếm mẹ, lần lượt chuyển tiếp gặp lúc đến trước khám thờ ấy, bỗng nhiên thấy đức Phật uy nghi trang nghiêm, ánh sáng chói lòa, dốc lòng thành khẩn, phát tâm hoan hỷ, ca ngợi mãi không thôi. Đối với hiện hành không gián đoạn, quên đặt một chân xuống, chiêm ngưỡng dung nhan tôn quý, mắt không rời trong giây lát, trải qua bảy ngày đêm, dùng một bài kệ ca ngợi Đức Phật ấy rằng:

Trời đất cõi này là ngôi nhà Đa Văn,
Thệ Cung ở cõi trời mười phương không có,
Bậc trượng phu Ngưu vương là Đại Sa-môn,
Tìm khắp núi rừng mặt đất không gì bằng.

Như vậy ca ngợi rồi liền vượt qua chín kiếp, đạt được Vô thượng Chánh giác trước Từ Thị.”

Hỏi: Bồ-tát tiếp cận Phật địa nhất định đối với Danh-Cú-Văn thân, đạt được sự khéo léo tuyệt vời tự tại chưa từng đạt được, nên dùng bài tụng khác-phẩm loại khác để ca ngợi Đức Phật, vì sao trải qua bảy ngày đêm chỉ dùng một bài tụng mà ca ngợi Đức Phật?

Đáp: Bồ-tát lúc bấy giờ bởi vì Tư nguyện thù thắng cho nên không lặp lại văn tụng, nếu thay đổi văn tụng thì Tư nguyện không thuần phác.

Lại nữa, Bồ-tát lúc bấy giờ bởi vì sợ rằng tán loạn, như văn tụng sai biệt thì tâm cũng khác đi, làm sao mà có thể nhất tâm chuyên chú?

Lại nữa, Bồ-tát biểu hiện tâm mình không có chán nản mệt mỏi, cho nên có thể đối với một bài tụng thường xuyên phát khởi Tư nguyện thù thắng mới nhất.

Hỏi: Vì sao Bồ-tát Từ Thị đối với căn của mình thì chín muồi trước, mà sự hóa độ lại chín muồi sau, Bồ-tát Thích-ca thì cùng với điều này trái ngược nhau?

Đáp: Bồ-tát Từ Thị phần nhiều lợi ích cho mình mà ít lợi ích cho người khác, Bồ-tát Thích-ca thì phần nhiều lợi ích cho người khác mà ít lợi ích cho mình, vì thế cho nên đều mang lại sự hóa độ không như nhau.

Hỏi: Như trong kinh nói: “Bồ-tát trải qua ba A-tăng-kỳ kiếp (atăng-xí-da), tu hành bốn Ba-la-mật-đa mới được tròn đầy.” Kiếp này là như thế nào?

Đáp: Có người nói: Là Trung kiếp. Có người nói: Là kiếp Thành.

Có người nói: Là kiếp Hoại.

Nói như vậy thì đây là Đại kiếp, tích tụ Đại kiếp này đến một Atăng-kỳ, như vậy đến ba A-tăng-kỳ mới tu tập tròn đầy.

Hỏi: A-tăng-kỳ kiếp này thì hạn lượng làm sao có thể biết được?

Đáp: Có người nói: Dùng Đại kiếp làm một, tích tụ số một này đến trăm ngàn thì gọi là Lạc-xoa, đến trăm-trăm ngàn thì gọi là Câuchi, trăm ngàn Câu-chi thì gọi là Na-dữu-đa, trăm ngàn Na-dữu-đa thì gọi là Tần-bà, trăm ngàn Tần-bà thì gọi là Kiến-tha. Từ đây về sau không phải là nơi đến của trí tính đếm. Đến phần vị không thể đến được này thì gọi là hạn lượng của một A-tăng-kỳ kiếp, hạn lượng của A-tăngkỳ kiếp thứ hai-thứ ba cũng như vậy.

Có người nói: Dùng Đại kiếp làm một, tích tụ số một này đến trăm ngàn thì gọi là Lạc-xoa, đến trăm-trăm ngàn thì gọi là Câu-chi, trăm ngàn Câu-chi thì gọi là Câu-chi Câu-chi, trăm ngàn Câu-chi Câuchi thì gọi là A-triết-triết Câu-chi, trăm ngàn A-triết-triết Câu-chi thì gọi là A-tra-tra Câu-chi, trăm ngàn A-tra-tra Câu-chi thì gọi là A-dữuđa, trăm ngàn A-dữu-đa thì gọi là A-dữu-đa phần, trăm ngàn A-dữu-đa phần thì gọi là Na-dữu-đa, trăm ngàn Na-dữu-đa thì gọi là Na-dữu-đa phần, trăm ngàn Na-dữu-đa phần thì gọi là Câu-vật-đà, trăm ngàn Câuvật-đà thì gọi là Câu-vật-đà phần, trăm ngàn Câu-vật-đà phần thì gọi là Bát-đặc-ma, trăm ngàn Bát-đặc-ma thì gọi là Bát-đặc-ma phần, trăm ngàn Bát-đặc-ma phần thì gọi là Ca-mạt-la, trăm ngàn Ca-mạt-la thì gọi là Ca-mạt-la phần, trăm ngàn Ca-mạt-la phần thì gọi là Nại-trĩ-na, trăm ngàn Nại-trĩ-na thì gọi là Nại-trĩ-na phần, trăm ngàn Nại-trĩ-na phần thì gọi là Đổ-chi, trăm ngàn Đổ-chi thì gọi là Đổ-chi phần, trăm ngàn Đổchi phần thì gọi là A-ba-ba, trăm ngàn A-ba-ba thì gọi là A-ba-ba phần, trăm ngàn A-ba-ba phần thì gọi là Tra-tra, trăm ngàn Tra-tra thì gọi là Tra-tra phần, trăm ngàn Tra-tra phần thì gọi là Ô-già, trăm ngàn Ô-già thì gọi là Ô-già phần, trăm ngàn Ô-già phần thì gọi là Bạt-la, trăm ngàn Bạt-la thì gọi là Bạt-la phần, trăm ngàn Bạt-la phần thì gọi là Bà-yếtla. Từ đây về sau không phải là nơi đến của trí tính đếm. Đến phần vị không thể đến được này thì gọi là hạn lượng của một A-tăng-kỳ kiếp, hạn lượng của A-tăng-kỳ kiếp thứ hai-thứ ba cũng như vậy.

Có người nói: Không phải là nơi đến của trí tính đếm, cho nên gọi là A-tăng-kỳ kiếp. Nhưng có kinh nói đến sáu mươi số, trong đó có một số gọi là A-tăng-kỳ, tích tụ số Đại kiếp đến số này thì gọi là một A-tăng-kỳ kiếp. Như kinh ấy nói: “Có một Vô dư số bắt đầu là một, mười một là mười, mười mười là trăm, mười trăm là ngàn, mười ngàn là Bát-la-tiết-đà, mười Bát-la-tiết-đà là Lạc-xoa, mười Lạc-xoa là Átđể Lạc-xoa, mười Át-để Lạc-xoa là Câu-chi, mười Câu-chi là Mạt-đà, mười Mạt-đà là A-dữu-đa, mười A-dữu-đa là Đại A-dữu-đa, mười Đại A-dữu-đa là Na-dữu-đa, mười Na-dữu-đa là Đại Na-dữu-đa, mười Đại Na-dữu-đa là Bát-la Na-dữu-đa, mười Bát-la Na-dữu-đa là Đại Bátla Na-dữu-đa, mười Đại Bát-la Na-dữu-đa là Căng-yết-la, mười Căngyết-la là Đại Căng-yết-la, mười Đại Căng-yết-la là Tần-bạt-la, mười Tần-bạt-la là Đại Tần-bạt-la, mười Đại Tần-bạt-la là A-sô-bà, mười A-sô-bà là Đại A-sô-bà, mười Đại A-sô-bà là Tỳ-bà-ha, mười Tỳ-bà-ha là Đại Tỳ-bà-ha, mười Đại Tỳ-bà-ha là Ốt-tăng-già, mười Ốt-tăng-già là Đại Ốt-tăng-già, mười Đại Ốt-tăng-già là Bà-hát-na, mười Bà-hát-na là Đại Bà-hát-na, mười Đại Bà-hát-na là Địa-trí-bà, mười Địa-trí-bà là Đại Địa-trí-bà, mười Đại Địa-trí-bà là Hê-đô, mười Hê-đô là Đại Hêđô, mười Đại Hê-đô là Yết-lạp-bà, mười Yết-lạp-bà là Đại Yết-lạp-bà, mười Đại Yết-lạp-bà là Ấn-đạt-la, mười Ấn-đạt-la là Đại Ấn-đạt-la, mười Đại Ấn-đạt-la là Tam-ma-bát-đam, mười Tam-ma-bát-đam là Đại Tam-ma-bát-đam, mười Đại Tam-ma-bát-đam là Yết-để, mười Yết-để là Đại Yết-để, mười Đại Yết-để là Khô-phiệt-la-xà, mười Khô-phiệtla-xà là Đại Khô-phiệt-la-xà, mười Đại Khô-phiệt-la-xà là Lão-đạt-la, mười Lão-đạt-la là Đại Lão-đạt-la, mười Đại Lão-đạt-la là Bạt-lam, mười Bạt-lam là Đại Bạt-lam, mười Đại Bạt-lam là San-nhược, mười San-nhược là Đại San-nhược, mười Đại San-nhược là Tỳ-bộ-đa, mười Tỳ-bộ-đa là Đại Tỳ-bộ-đa, mười Đại Tỳ-bộ-đa là Bạt-la-sàm, mười Bạt-la-sàm là Đại Bạt-la-sàm, mười Đại Bạt-la-sàm là A-tăng-kỳ.” Từ đây về sau còn có tám số cùng với trước là sáu mươi số, tích tụ thành một Đại kiếp, đến số A-tăng-kỳ thứ năm mươi hai này, thì gọi là một A-tăng-kỳ kiếp, A-tăng-kỳ kiếp thứ hai-thứ ba cũng lại như vậy. Có người nói: Tôn giả Xá-lợi-tử dựa vào Tĩnh lự thứ tư khởi lên Túc trú tùy niệm trí thông, duyên với đời quá khứ đến kiếp đã đạt tới là hạn lượng của một A-tăng-kỳ kiếp, hạn lượng của A-tăng-kỳ kiếp thứ hai-thứ ba cũng như vậy.

Người ấy không nên đưa ra cách nói này, bởi vì hạn lượng của Atăng-kỳ kiếp không phải là cảnh thuộc trí Túc trú của Xá-lợi-tử… Trong này, hoặc là nói hạn lượng của ba A-tăng-kỳ kiếp, đều là cảnh thuộc trí Túc trú của Xá-lợi-tử, không nên nói đến kiếp của trí ấy đã đạt tới là hạn lượng của một A-tăng-kỳ kiếp.

Có người nói: Dựa vào một công hạnh bố thí để phân biệt về hạn lượng của ba A-tăng-kỳ kiếp, nghĩa là nếu lúc Bồ-tát tuy thực hành bố thí mà chưa có thể rời bỏ tất cả các vật-bố thí tất cả ruộng đất, đến đây gọi là A-tăng-kỳ kiếp thứ nhất; nếu lúc Bồ-tát có thể thực hành bố thí, cũng có thể rời bỏ tất cả các vật mà chưa có thể bố thí tất cả ruộng đất, hoặc là có thể bố thí tất cả ruộng đất mà chưa có thể rời bỏ tất cả các vật, đến đây gọi là A-tăng-kỳ kiếp thứ hai; nếu lúc Bồ-tát có thể thực hành bố thí, cũng có thể rời bỏ tất cả các vật và có thể bố thí tất cả ruộng đất, đến đây gọi là A-tăng-kỳ kiếp thứ ba.

Có người nói: Dựa vào sự việc đã gặp Đức Phật để phân biệt về hạn lượng của ba A-tăng-kỳ kiếp, đó là ở quá khứ lâu xa lúc con người sống thọ một trăm tuổi, có Đức Phật danh hiệu Thích-ca Mâu-ni xuất hiện ở thế gian, sinh trong dòng họ Thích-ca thuộc đẳng cấp Sát-đế-lợi, mẹ tên là Ma ha Ma-da, cha tên là Tịnh Phạn, con trai tên là La-hầu-la, kinh thành tên gọi Kiếp-tỷ-la-phiệt-suất-đổ, phần nhiều là các dòng họ Thích, đệ tử thị giả tên là A-nan-đà, hai đệ tử bậc nhất tên là Xá-lợi-tử và Đại Mục-kiền-liên. Lúc bấy giờ thế gian tăng mạnh về năm Trược, bị sự bức bách của sinh-già-chết, ngu si mù lòa không có người dẫn dắt. Đức Phật Thế Tôn ấy dùng nguyện lực Từ Bi xuất hiện trong hoàn cảnh ấy, tinh tiến tăng thượng giáo hóa dẫn dắt các hữu tình chưa hề tạm thời dừng nghỉ. Bởi vì như vậy, cho nên bị gió làm cho khốn đốn, vai và lưng có bệnh. Lúc ấy có người thợ gốm tên gọi Quảng Xí, Đức Phật biết thời cơ đã đến, liền bảo thị giả A-nan-đà rằng: Ông có thể đi đến nhà người thợ gốm Quảng Xí xin dầu mè và nước ấm, để xoa rửa cho Ta. Thị giả cung kính vâng dạ đi đến nhà người thợ gốm, đứng trước Quảng Xí dùng lời thân ái thăm hỏi rồi, phương tiện ca ngợi Đức Phật có đủ loại công đức, Giới-Định-Tuệ thù thắng, ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp tùy thuộc, ánh sáng tròn rực rỡ, trí kiến vô ngại, biện tài không vướng mắc. Lại nói cho Quảng Xí biết rằng: Như vậy, Đức Thế Tôn nếu không xuất gia, thì sẽ làm vị Luân Vương cai quản bốn châu thế giới, tôi và các ông cùng tất cả thế gian đều làm tôi tớ, nhưng nay rời bỏ ngôi vua như vậy, xuất gia tu hành khổ hạnh, đạt được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, đầy đủ tất cả trí kiến, đoạn dứt tất cả lưới nghi, thực hiện tất cả quyết định, có thể bàn luận tận cùng nguồn gốc tất cả mọi vấn đề, nhìn các hữu tình giống như con một, nay ở không xa nơi này, nhưng vì cứu giúp nỗi khổ của các ông cho nên luôn luôn vượt qua đường xa, bị gió làm cho khốn đốn, vai và lưng đau nhức đã lâu, cần đến dầu mè và nước ấm, cho nên tự mình đến đây, có thể được thì giúp cho chăng? Lúc bấy giờ Quảng Xí nghe rồi vui mừng ca ngợi là chưa từng có, làm thế nào ở chốn nhân gian mà có công đức này? Tức thì trả lời Tôn giả rằng: Nhân giả nay tạm thời trở về, tôi sẽ như lời dạy tự mình đi đến nơi Đức Phật. Thị giả đi chưa lâu, Quảng Xí lập tức sắp xếp dầu mè sống và nước thơm nóng ấm, mang đi đến chỗ Đức Phật. Đức Phật từ xa trông thấy, vì làm cho người ấy gieo trồng căn thiện, cho nên cởi bỏ những áo khác, chỉ giữ lại áo lót thân, ngồi chờ đợi bên bàn. Quảng Xí đến rồi phát tâm thuần tịnh, lấy dầu đã mang đến cung kính khéo léo xoa vào vai và lưng Đức Phật, dùng đủ cách để xoa bóp, lại dùng nước thơm nóng ấm rưới lên để rửa sạch. Lúc ấy trừ hết bệnh gió, Đức Phật cảm thấy thư thái, dùng âm thanh hiền từ dịu dàng an ủi vỗ về Quảng Xí. Người ấy nghe trong lòng hoan hỷ liền phát nguyện rằng: Nguyện cho con ở đời vị lai sẽ được làm Phật, danh hiệu-quyến thuộc-thời gian-xứ sở-đệ tử, giống như Đức Thế Tôn hôm nay không có gì khác!

Nên biết rằng người thợ gốm ấy chính là Bồ-tát Thích-ca, nhờ vào nguyện xưa cho nên bây giờ danh hiệu-quyến thuộc… như xưa không khác. Nhưng từ lúc ở nơi Đức Phật ấy phát nguyện này về sau, cho đến sự việc gặp được Đức Như Lai Bảo Kế, thì gọi là hết A-tăng-kỳ kiếp thứ nhất. Từ đây về sau cho đến sự việc gặp được Đức Như Lai Nhiên Đăng, thì gọi là hết A-tăng-kỳ kiếp thứ hai. Tiếp tục từ đây về sau cho đến sự việc gặp được Đức Như Lai Thắng Quán, thì gọi là hết A-tăngkỳ kiếp thứ ba. Từ đây về sau tiếp tục trải qua chín mươi mốt kiếp tu nghiệp của tướng vi diệu, lúc đến sự việc gặp được Đức Phật Ca-diếpba thì mới được tròn đầy.

Có người nói: Có ba loại A-tăng-kỳ kiếp, một là A-tăng-kỳ kiếp, hai là A-tăng-kỳ sinh, ba là A-tăng-kỳ diệu hạnh. A-tăng-kỳ kiếp, đó là dùng Đại kiếp làm một tích tụ đến Lạc-xoa Câu-chi, lần lượt chuyển tiếp cho đến vượt qua số Bà-yết-la. A-tăng-kỳ sinh, đó là mỗi một kiếp trải qua vô số đời sống. A-tăng-kỳ diệu hạnh, đó là mỗi một kiếp tu tập vô số diệu hạnh. Nhờ vào ba loại A-tăng-kỳ này, chứng được quả vị Vô thượng Chánh giác.

Điều này không hợp lý. Nghĩa như thật thì trong này chỉ nói là trải qua ba A-tăng-kỳ kiếp, tu hành viên mãn.

*******

 

Hỏi: Như nói Bồ-tát trải qua ba A-tăng-kỳ kiếp, tu bốn Ba-la-mậtđa mà được tròn đầy, đó là Bố thí Ba-la-mật-đa, Trì giới Ba-la-mật-đa, Tinh tiến Ba-la-mật-đa, Bát nhã Ba-la-mật-đa, nên nói ở thời gian nào, tu Ba-la-mật-đa nào mà được tròn đầy?

Đáp: Có người nói: Nếu lúc Bồ-tát thực hành bố thí, không bị sự keo kiệt bủn xỉn làm cho khuất phục, thì nên nói là Bố thí Ba-la-mật-đa tròn đầy; lúc trì giới thanh tịnh không bị giới ác làm cho xen tạp, thì nên nói là Trì giới Ba-la-mật-đa tròn đầy; lúc phát khởi tinh tiến không bị sự lười nhác uể oải làm lui sụt hư hoại, thì nên nói là Tinh tiến Ba-la-mậtđa tròn đầy; lúc tu Bát-nhã không bị Tuệ ác làm rối loạn, thì nên nói là Bát nhã Ba-la-mật-đa tròn đầy.

Có người nói: Nếu lúc Bồ-tát chỉ vì tâm Bi mà có thể bố thí tất cả các loại vật dụng, cho đến thân mạng-đầu mắt-tủy não cũng không có một niệm tâm luyến tiếc, thì đến đây gọi là Bố thí Ba-la-mật-đa tròn đầy; nếu lúc Bồ-tát bất ngờ bị hữu tình chặt đứt tay chân, cắt xẻo tai mũi, hoặc là chặt đứt thân thể, thậm chí không còn nguyên vẹn dù chỉ bằng hạt cải, lúc bấy giờ không có một niệm tâm tức giận, huống gì muốn trả thù, thì đến đây gọi là Trì giới Ba-la-mật-đa tròn đầy; nếu lúc Bồ-tát bởi vì tâm dũng mãnh, trải qua bảy ngày đêm mà đứng một chân, không chớp mắt mà nhìn, dùng một bài tụng ca ngợi Đức Phật, mà không có một niệm tâm uể oải mệt mỏi, thì đến đây gọi là Tinh tiến Ba-la-mật-đa tròn đầy; nếu lúc Bồ-tát tên gọi Cù-tần-đà tinh tiến cầu mong Bồ-đề, thông minh trí tuệ bậc nhất, luận bàn chất vấn không ai sánh bằng, thế gian đều ca ngợi ngưỡng mộ, thì đến đây gọi là Bát nhã Ba-la-mật-đa tròn đầy.

Hoặc là nói: Cho đến ngồi nơi tòa Kim cang, tiến vào Định Kim

cang dụ, sắp chứng được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, đến đây mới gọi là Bát nhã Ba-la-mật-đa tròn đầy.

Nói như vậy thì những cách nói này đều dựa vào một thời gian, một công hạnh tăng thượng mà nói là tròn đầy; nghĩa như thật thì lúc đạt được Tận trí, bốn Ba-la-mật-đa này mới được tròn đầy.

Sư nước ngoài nói: “Có sáu Ba-la-mật-đa, đó là bốn loại ở trước thêm vào Nhẫn và Tĩnh lự.”

Các luận sư của nước Ca-thấp-di-la nói: “Hai Ba-la-mật-đa sau tức là do bốn loại trước thâu nhiếp, đó là Nhẫn thâu nhiếp ở trong Giới, Tĩnh lự thâu nhiếp ở trong Bát-nhã, bởi vì lúc Giới-Tuệ đầy đủ thì gọi là Bát-nhã đầy đủ.”

Lại có người nói khác: Sáu Ba-la-mật-đa, đó là bốn loại ở trước thêm vào Văn và Nhẫn. Nếu lúc Bồ-tát có thể thọ trì tất cả mười hai phần giáo của Đức Như Lai đã nói, thì đến đây gọi là Văn Ba-la-mật-đa tròn đầy. Nếu lúc Bồ-tát tự nói mình tu Nhẫn nhục, bị vua Yết-lợi cắt xẻ thân thể, mà không hề có một niệm tâm tức giận, lại dùng lời nói hiền từ thề làm lợi ích cho nhà vua, thì đến đây gọi là Nhẫn Ba-la-mật-đa tròn đầy.

Hai loại này cũng thâu nhiếp ở trong bốn loại trước, Nhẫn nói như trước, Văn thuộc về Tuệ, tuy các công đức đều có thể gọi là Ba-la-mậtđa, mà dựa vào nghĩa tăng thượng biểu hiện rõ ràng để nói, cho nên chỉ có bốn loại.

Hỏi: Lúc tu bốn Ba-la-mật-đa này, ở mỗi một A-tăng-kỳ kiếp gặp được sự việc của mấy Đức Phật?

Đáp: A-tăng-kỳ kiếp thứ nhất gặp được sự việc của bảy vạn năm ngàn Đức Phật, vị đầu tiên danh hiệu Thích-ca Mâu-ni, vị cuối cùng danh hiệu Bảo Kế; A-tăng-kỳ kiếp thứ hai gặp được sự việc của bảy vạn sáu ngàn Đức Phật, vị đầu tiên chính là Bảo Kế, vị cuối cùng danh hiệu Nhiên Đăng; A-tăng-kỳ kiếp thứ ba gặp được sự việc của bảy vạn bảy ngàn Đức Phật, vị đầu tiên chính là Nhiên Đăng, vị cuối cùng danh hiệu Thắng Quán; ở trong chín mươi mốt kiếp tu về nghiệp dị thục của tướng, gặp được sự việc của sáu Đức Phật, vị đầu tiên chính là Thắng Quán, vị cuối cùng danh hiệu Ca-diếp-ba.

Nên biết đây là dựa vào Bồ-tát Thích-ca mà nói, nếu là Bồ-tát khác thì không nhất định. Như vậy Bồ-tát Thích-ca ở thời Đức Phật Cadiếp-ba, bốn Ba-la-mật-đa trước tiên đầy đủ tùy theo từng phần, nghiệp dị thục của tướng nay khéo tròn đầy, từ châu Thiệm Bộ này chết đi, sinh đến cõi trời Đổ-sử-đa, nhận lấy dị thục cuối cùng ở cõi trời.

Hỏi: Vì sao Bồ-tát chỉ ở cõi trời Đổ-sử-đa, nhận lấy dị thục cuối cùng ở cõi trời, chứ không ở cõi trời khác?

Đáp: Hiếp Tôn giả nói: “Điều này không cần phải hỏi, nếu ở trên hay là ở dưới thì cũng đều sinh lòng nghi ngờ, nhưng mà sinh ở cõi trời ấy không trái với pháp tướng.”

Có người nói: Cõi trời Đổ-sử-đa là cõi trời ở giữa một ngàn thế giới, pháp giống như phần rốn, vì thế cho nên Bồ-tát chỉ sinh đến cõi trời ấy.

Có người nói: Cõi trời phía dưới thì phóng túng, cõi trời phía trên thì căn chậm chạp, chỉ có cõi trời Đổ-sử-đa lìa xa hai lỗi lầm, bởi vì Bồtát lo sợ phóng túng-chán ngán căn chậm chạp, cho nên chỉ sinh đến cõi trời ấy.

Có người nói: Cõi trời phía dưới thì phiền não sắc bén, cõi trời phía trên thì phiền não thường xuyên hiện hành, cõi trời Đổ-sử-đa lìa xa hai loại này, bởi vì Bồ-tát chán ngán hai loại phiền não này, cho nên chỉ sinh đến cõi trời ấy.

Có người nói: Bồ-tát chỉ tạo tác tăng trưởng về nghiệp của cõi trời ấy, cho nên chỉ sinh đến cõi trời ấy.

Có người nói: Chỉ riêng thọ lượng ở cõi trời Đổ-sử-đa tương xứng với thời gian Bồ-tát thành Phật và nghiệp chín muồi của người châu Thiệm Bộ được thấy Đức Phật. Nghĩa là loài người trải qua năm mươi bảy Câu-chi sáu mươi ngàn năm, thì căn thiện của người hóa độ và người được hóa độ sẽ chín muồi, đó chính là thọ lượng ở cõi trời Đổsử-đa, vì thế cho nên Bồ-tát chỉ sinh đến cõi trời ấy. Nếu sinh ở cõi trời phía trên thì thọ lượng chưa hết mà căn thiện đã chín muồi, nếu sinh ở cõi trời phía dưới thì thọ lượng đã hết mà căn thiện chưa chín muồi, cho nên không sinh đến những nơi ấy.

Có người nói: Bởi vì giáo hóa vô lượng chúng Bồ-tát vui với pháp ở cõi trời Đổ-sử-đa, nghĩa là trong cõi trời ấy có chín sảnh đường, mỗi sảnh đường có số lượng là mười hai Du-thiện-na, Bồ-tát vui với pháp thường quy tụ trong đó, Bồ-tát Bổ xứ ngày đêm sáu thời luôn luôn nói pháp cho họ, ở cõi trời phía trên-phía dưới không có sự việc như vậy.

Có người nói: Bồ-tát luôn luôn ư thích thực hành Trung đạo (xử trung), cho nên ở đời cuối cùng sinh trong cõi trời Đổ-sử-đa, từ cõi trời ấy chết rồi sinh vào kinh thành Kiếp-tỷ-la-phiệt-suất-đổ thuộc Trung Ấn Độ, vào thời gian nửa đêm vượt thành xuất gia, dựa vào công hạnh Trung đạo thành tựu quả vị Đẳng Chánh Giác, vì các hữu tình nói về pháp Trung đạo, ở thời gian nửa đêm mà nhập Niết-bàn. Vì vậy chỉ sinh đến cõi trời Đổ-sử-đa, chứ không ở cõi trời nào khác.

Hỏi: Vì sao Bồ-tát ở thân cuối cùng chỉ từ cõi trời chết đi chứ không từ loài người mà xuất hiện?

Đáp: Có người nói: Bởi vì ở trong các nẽo thì nẽo trời là thù thắng.

Có người nói: Bởi vì từ trên cõi trời mà xuất hiện cho nên loài người đều tôn trọng.

Có người nói: Bởi vì lúc từ cõi trời xuất hiện thì có sự việc thần biến, từ loài người xuất hiện thì không có sự việc như vậy.

Có người nói: Trong loài người không có thọ lượng như vậy, bởi vì thọ lượng ở cõi trời Đổ-sử-đa tương xứng với thời gian chín muồi của căn thiện.

Có người nói: Bởi vì lực tăng thượng do nghiệp của chúng Bồ-tát vui với pháp ở cõi trời Đổ-sử-đa, khiến cho Bồ-tát này nhất định phải sinh ở cõi trời ấy để thuyết pháp cho họ.

Có người nói: Bởi vì lúc ấy Bồ-tát có nghiệp sinh ở cõi trời cho nên nhất định phải đón nhận.

Có người nói: Nếu Bồ-tát nhiều lần sinh trong loài người mà thành Phật, thì bởi vì sinh tâm chán ngán thấp hèn cho nên không tiếp nhận hóa độ.

Hỏi: Vì sao không thành tựu Chánh Đẳng Giác ngay nơi cõi trời Đổ-sử-đa, mà cần phải đến giữa loài người?

Đáp: Bởi vì thuận theo pháp của chư Phật, nghĩa là hằng hà sa số chư Phật Thế Tôn đều ở giữa loài người mà tiếp nhận quả vị Chánh giác.

Lại nữa, bởi vì thân của loài trời không phải là nơi nương tựa của quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Lại nữa, bởi vì chỉ có trí tuệ-nhận thức mạnh mẽ sắc bén của loài người mới có thể đạt được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Lại nữa, bởi vì chư Thiên đam mê theo dục lạc tuyệt vời, đối với sự việc tiến vào Chánh tánh ly sinh-đạt được quả-lìa nhiễm… không phải là tăng thượng.

Lại nữa, căn tánh của loài người mạnh mẽ sắc bén, phần nhiều có thể tiếp nhận Chánh pháp của Như Lai; loài trời thì không như vậy.

Lại nữa, bởi vì thân cuối cùng của Bồ-tát cần phải nhận lấy Thai sinh, mà loài trời chỉ là Hóa sinh.

Lại nữa, có hai sự việc để Đức Phật xuất hiện ở thế gian:

  1. Có tâm chán ngán.
  2. Có trí mạnh mẽ sắc bén.

Nên biết hai sự việc này chỉ có ở loài người.

Lại nữa, loài người và loài trời đều là pháp khí, bởi vì muốn thâu nhiếp cả hai, cho nên xuất hiện giữa loài người; nếu ở trên cõi trời thì loài người không biết nhờ đâu mà đến được. Hơn nữa, không có thể khiến cho ở trên cõi trời thành Phật mà đến giáo hóa giữa loài người, loài người sẽ nghi ngờ Đức Phật là do huyễn hóa đã tạo ra, cho nên không tiếp nhận giáo pháp. Vì thế cho nên Bồ-tát thành Phật giữa loài người.

Nhưng Bồ-tát ở cung trời Đổ-sử-đa, thọ lượng ở đó không còn, lúc sắp sinh xuống cõi dưới, trước tiên quán xét bốn sự việc:

  1. Quán xét về thời gian.
  2. Quán xét về xứ sở.
  3. Quán xét về chủng tánh.
  4. Quán xét về nơi nương tựa.

Quán xét về thời gian, đó là quán xét đối với thế gian, Đức Phật nên xuất thế ở trong thời gian nào? Liền biết là Đức Phật nên xuất thế từ lúc loài người sống thọ tám vạn tuổi cho đến một trăm tuổi, nay chính là đúng lúc.

Quán xét về xứ sở, đó là quán xét đối với thế gian, Đức Phật nên xuất thế ở xứ sở nào? Liền biết là Đức Phật nên xuất thế ở vùng Trung Ấn Độ thuộc châu Thiệm Bộ, chứ không phải là trong chốn biên địa Đạt-tự Miệt-lệ-xa.

Quán xét về chủng tánh, đó là quán xét đối với thế gian, Đức Phật nên xuất thế trong chủng tánh nào? Liền biết là Đức Phật nên xuất thế hoặc là trong chủng tánh Sát-đế-lợi, hoặc là chủng tánh Bà-la-môn, tùy theo lúc ấy chủng tánh nào cường thịnh thì sinh trong chủng tánh ấy.

Quán xét về nơi nương tựa, đó là quán xét đối với thế gian, những người nữ nào có cha mẹ-chủng tánh thảy đều thanh tịnh, thai tạng rộng rãi không có những lỗi lầm, có thể duy trì sức lực Na-la-diên của bồ-tát mà hợp thành thân, trải qua thời gian mười tháng? Liền biết trong châu Thiệm Bộ có người nữ này, tên gọi như vậy, có thể làm nơi nương tựa. Bồ-tát quán xét bốn sự việc như vậy rồi, liền bảo với Thiên tử Hành Đạo rằng: Ông có thể đi khắp nơi nói cho Thiên chúng ở cung trời Đổ-sử-đa biết, sau bảy ngày nữa Bồ-tát Bổ xứ sẽ từ nơi này chết đi, sinh vào kinh thành Kiếp-tỷ-la-phiệt-suất-đổ thuộc Trung Ấn Độ ở châu Thiệm Bộ, làm nhiều Phật sự, những ai muốn đi theo thì nên phát nguyện hướng đến! Thiên tử Hành Đạo hoan hỷ vâng dạ cung kính, nhờ vào thần thông nhanh chóng vốn có của mình, đi khắp nơi báo tin cho Thiên chúng ở cung trời Đổ-sử-đa biết: Các vị Thiên Tiên nên biết! Sau bảy ngày nữa Bồ-tát Bổ xứ sẽ đi xuống châu Thiệm Bộ, sinh trong kinh thành Kiếp-tỷ-la-phiệt-suất-đổ thuộc Trung Ấn Độ, làm nhiều Phật sự, các vị Nhân giả và Thiên chúng nào muốn đi theo thì nên phát nguyện hướng đến! Lúc bấy giờ liền có năm trăm vị Thiên tử, theo tiếng nói lập tức phát nguyện sinh theo xuống trần gian. Đến ngày thứ bảy, Bồtát liền cùng với năm trăm vị Thiên tử, cùng lúc từ cung trời Đổ-sử-đa chết đi, cùng lúc mà sinh vào kinh thành Kiếp-tỷ-la-phiệt-suất-đổ thuộc Trung Ấn Độ ở châu Thiệm Bộ, đều là người dòng họ Thích, giúp đỡ truyền bá thực hiện Phật sự. Nên biết đây là nói về Bồ-tát Thích-ca, nếu như Bồ-tát khác thì tùy theo sự thích hợp của họ.

Như nói: “Này Từ Thị, ông ở đời vị lai sẽ được làm Phật…” Hỏi: Vì sao soạn ra phần luận này?

Đáp: Bởi vì muốn phân biệt nghĩa lý trong kinh, như “Đức Thế Tôn nói: Ở đời vị lai, lúc tuổi thọ của con người là tám vạn tuổi, châu Thiệm Bộ này đất đai rộng rãi, dân chúng đông đúc, yên ổn vui sướng, thôn xóm thành ấp rộn tiếng gà gáy, người nữ năm trăm tuổi bấy giờ mới đi lấy chồng. Lúc ấy thân thể mọi người tuy mạnh mẽ xinh đẹp, nhưng có ba điều lo sợ:

  1. Đại tiện-tiểu tiện.
  2. Nóng lạnh đói khát.
  3. Tham dâm già bệnh.

Có vị Chuyển Luân Vương tên gọi Hưởng Khư, uy lực điều phục bốn phương, như pháp cảm hóa thế gian, thành tựu bảy vật quý báu, đó là vòng xe quý báu, voi quý báu, ngựa quý báu, ngọc quý báu, người nữ quý báu, quan chủ quản kho tạng quý báu, quan chủ quản binh lính quý báu. Đầy đủ ngàn người con, dũng cảm mạnh mẽ, khôi ngô tuấn tú, có năng lực đẩy lùi quân địch. Mặt đất bằng phẳng như bàn tay, cho đến tận cùng bờ biển rộng không có gò nổng-hố hầm-sỏi đá-gai góc. Mọi người đều hòa thuận, tâm Từ hướng về nhau, không dụng binh khí, dùng lẽ phải tự giữ mình. Nhà vua có đài quý báu, cao một ngàn Tầmchiều rộng mười sáu Phân, trang nghiêm đủ loại mang đi cúng dường ruộng phước, bắt đầu nghiệp phước to lớn. Sau đó không lâu cạo bỏ râu róc, dùng tín tâm xuất gia chịu khó tu Phạm hạnh, ở trong pháp hiện tại thành bậc A-la-hán, liền có thể tự biết rõ: Đời sống của mình đã hết, Phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, không nhận lấy thân đời sau, được nhập Niết-bàn.

Lúc Đức Phật nói lời này xong, Tỳ kheo A-thị-đa ở trong chúng, liền từ chỗ ngồi đứng dậy mà cung kính chắp tay thưa với Đức Phật rằng: Thưa Đức Thế Tôn! Con nguyện ở đời vị lai sẽ được làm Luân Vương Hưởng Khư ấy, uy lực điều phục bốn phương, như pháp cảm hóa thế gian…, cho đến được nhập Niết-bàn.

Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn quở trách Tỳ kheo ấy rằng: Người ngu si, vì sao không muốn một lần chết mà cầu mong nhiều lần chết, nguyện ở đời vị lai làm Luân Vương Hưởng Khư…? Nhưng mà A-thị-đa, như ông đã nguyện, ông ở đời vị lai nhất định được làm Luân Vương Hưởng Khư ấy, uy lực điều phục bốn phương, như pháp cảm hóa thế gian…, cho đến được nhập Niết-bàn.

Lại bảo với Đại chúng: Ở đời vị lai, lúc tuổi thọ của con người là tám vạn tuổi, có Đức Phật xuất thế, danh hiệu là Từ Thị Như Lai-Ứng Chánh Đẳng Giác-Minh Hạnh Viên Mãn-Thiện Thệ-Thế Gian Giải-Vô Thượng Sĩ-Điều Ngự Trượng Phu-Thiên Nhân Sư-Phật-Thế Tôn, đầy đủ mười hiệu như Ta bây giờ. Đức Phật ấy lại ở giữa chúng Thiên ma, Đại Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn, trời người của thế gian này, tự xưng Ta là Như Lai-Ứng Chánh Đẳng Giác cho đến Phật-Thế Tôn, đầy đủ mười hiệu, chứng được thần thông trí tuệ tự tại, cũng tự biết rõ ràng đời sống của mình đã hết, Phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, không nhận lấy thân đời sau, được nhập Niết-bàn. Lại vì hữu tình tuyên thuyết về Chánh pháp, nêu bày rõ ràng Sơ thiện-Trung thiện-Hậu thiện, văn nghĩa tuyệt vời thuần nhất, đầy đủ trọn vẹn Phạm hạnh trong sáng, đích thực mở bày Phạm hạnh cho các hàng trời-người, khiến cho tu học nhiều hơn, vô lượng trăm ngàn đồ chúng vây quanh, vô lượng đệ tử họ Từ hầu hạ bảo vệ, làm lợi ích to lớn. Như Ta bây giờ cũng ở giữa chúng Thiên ma, Đại Phạm… của thế gian này, nói rộng cho đến… vô lượng đệ tử họ Thích hầu hạ bảo vệ, làm lợi ích to lớn.

Lúc Đức Phật nói lời này xong, Bồ-tát Từ Thị ở trong chúng, liền từ chỗ ngồi đứng dậy mà cung kính chắp tay thưa với Đức Phật rằng: Thưa Đức Thế Tôn! Con nguyện ở đời vị lai sẽ được làm Từ Thị Như Lai-Ứng Chánh Đẳng Giác… ấy, nói rộng cho đến… như Đức Thế Tôn bây giờ cũng được vô lượng đệ tử họ Thích hầu hạ bảo vệ, làm lợi ích to lớn.

Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn nghe vị ấy nói xong, khởi lên trí đời trước (tiền tế trí), quán xét tỉ mỉ Từ Thị trải qua ba Vô số kiếp tu bốn Ba-la-mật-đa được đầy đủ trọn vẹn hay không? Liền biết như thật là đều đã đầy đủ trọn vẹn. Lại quán xét tỉ mỉ vị ấy trong trăm Đại kiếp tu về nghiệp dị thục của tướng được đầy đủ trọn vẹn hay không? Liền biết như thật là trừ ra nghiệp của tướng sắc vàng, còn lại đều đầy đủ trọn vẹn.

Vì vậy, Đức Phật bảo với Đại sinh chủ Kiều-đáp-di rằng: Nay cô có thể đem chiếc y sắc vàng này cúng dường chúng Tăng, nếu cúng dường Tăng thì nên biết cũng gọi là cúng dường cho Ta. Lúc ấy Đức Phật biết trước là chúng Tăng có được chiếc y sắc vàng này rồi, có là nhân duyên thích hợp để Từ Thị có được, Từ Thị có được rồi nhất định sẽ cúng dường cho Ta, nói rộng cho đến… nhờ vào nhân duyên này mà đầy đủ nghiệp của sắc vàng.”

Trong này, có người nói: “Đức Phật muốn làm cho vị ấy đầy đủ nghiệp của sắc vàng, bảo với A-nan-đà rằng: Ông hãy tìm cho Ta chiếc y sắc vàng mới, Ta muốn cầm trao Từ Thị. Lúc ấy A-nan-đà như lời dạy tìm được chiếc y, lập tức quỳ gối dâng lên. Đức Thế Tôn có được chiếc y rồi bảo với Từ Thị rằng: Ông hãy nhận lấy chiếc y sắc vàng mới này. Từ Thị vâng theo lời dạy nhưng không dám nhận lấy. Đức Phật bảo rằng: Cứ nhận lấy, tùy ý ông dâng cúng Đức Phật là bậc Thượng Thủ của Tăng. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì ông ở đời vị lai sẽ nhờ vào phước này để làm lợi ích cho thế gian. Từ Thị cung kính vâng dạ nhận lấy rồi dâng cúng Đức Phật là bậc Thượng Thủ của Tăng. Nhờ vào nhân duyên này mà đầy đủ nghiệp của sắc vàng.”

Có người nói: Nghiệp về tướng sắc vàng của Từ Thị cũng đầy đủ trọn vẹn trước đó, nhưng Đức Phật dạy vị ấy cúng dường chiếc y sắc vàng, là bởi vì muốn hiển bày về công đức tuy đầy đủ trọn vẹn mà không hề thỏa mãn, cho nên khuyến khích dẫn dắt người khác.

“Đức Thế Tôn khởi lên trí đời trước quán xét về đời trước của Từ Thị rồi, lại khởi lên trí đời sau (hậu tế trí) quán xét tỉ mỉ ở vị lai lúc tuổi thọ của con người là tám vạn tuổi, Từ Thị có đạt được thân sở y của quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề hay không? Liền biết là Từ Thị có điều đó. Lại quán sát tỉ mỉ là Từ Thị vào lúc bấy giờ có khả năng đạt được quả vị Bồ-đề hay không? Liền biết là Từ Thị có khả năng. Đức Thế Tôn quán xét đời trước-đời sau của Từ Thị rồi, liền khen ngợi Bồtát Từ Thị rằng: Khéo thay, khéo thay! Ông có thể phát khởi Tư nguyện rộng lớn này vì muốn làm lợi ích cho vô lượng hữu tình, thật là niềm vui tốt lành!

Lại bảo với Từ Thị: Như ông đã nguyện, ông ở đời vị lai lúc tuổi thọ của con người là tám vạn tuổi, sẽ được làm Phật danh hiệu là Từ Thị Như Lai-Ứng Chánh Đẳng Giác…, nói rộng cho đến… vô lượng đệ tử họ Từ hầu hạ bảo vệ, làm lợi ích to lớn. Như Ta bây giờ cũng được vô lượng đệ tử họ Thích hầu hạ bảo vệ, làm lợi ích to lớn.”

Hỏi: A-thị-đa và Từ Thị đều cầu mong thân lúc tám vạn tuổi ở vị lai, vì sao Đức Thế Tôn quở trách A-thị-đa mà lại khen ngợi Từ Thị?

Đáp: Tỳ kheo A-thị-đa đối với quả báo khởi lên ý thích, khởi lên thắng giải, khởi lên vui mừng, khởi lên hy vọng, khởi lên mong cầu, cho nên Đức Phật quở trách; Bồ-tát Từ Thị đối với quả báo không khởi lên ý thích cho đến mong cầu, nhưng khởi lên ý thích cho đến mong cầu đối với việc làm lợi ích yên vui cho hữu tình, cho nên Đức Phật khen ngợi.

Lại nữa, A-thị-đa mong cầu địa vị Luân Vương của thế gian, cho nên Đức Phật quở trách; Từ Thị mong cầu địa vị Luân Vương xuất thế gian, cho nên Đức Phật khen ngợi. Như vậy, cầu địa vị của Luân Vương lưu chuyển, cầu địa vị của Luân Vương hoàn diệt nói cũng như vậy.

Lại nữa, A-thị-đa mong cầu lợi ích yên vui cho mình, cho nên Đức

Phật quở trách; Từ Thị mong cầu lợi ích yên vui cho người, cho nên Đức Phật khen ngợi. Như vậy, cầu lợi ích cho mình, cầu lợi ích cho người nói cũng như vậy.

Trong kinh tuy nói ra điều này: “Này Từ Thị, ông ở đời vị lai lúc tuổi thọ của con người là tám vạn tuổi, sẽ được làm Phật danh hiệu là Từ Thị Như Lai-Ứng Chánh Đẳng Giác…” Nhưng mà không phân biệt đây là trí nào, trí này đối với nơi nào mà chuyển? Kinh ấy là nơi nương tựa căn bản của luận này, điều gì trong kinh không nói, thì nay cần phải nói, cho nên soạn ra phần luận này.

Hỏi: Như nói: “Này Từ Thị, ông ở đời vị lai lúc tuổi thọ của con người là tám vạn tuổi, sẽ được làm Phật danh hiệu là Từ Thị Như LaiỨng Chánh Đẳng Giác.” Đây là trí nào?

Đáp: Nhân trí và Đạo trí, đây chính là trí của Như Lai quán sát về đời trước-đời sau của Từ Thị.

Hỏi: Trí này đối với nơi nào mà chuyển?

Đáp: Có lúc đối với nghiệp dị thục của tướng mà chuyển, vì vậy gọi là Nhân trí; có lúc đối với Căn-Lực-Giác chi-Đạo chi vô lậu đạt được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề mà chuyển, vì vậy gọi là Đạo trí. Đây chính là trí của Như Lai quán sát về nghiệp dị thục của tướng ở đời trước của Từ Thị đầy đủ trọn vẹn hay không đầy đủ trọn vẹn, trí đối với nhân mà chuyển cho nên gọi là Nhân trí; và là trí quán sát về Căn-Lực-Giác chi-Đạo chi vô lậu đạt được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề ở đời sau của Từ Thị, trí đối với đạo mà chuyển cho nên gọi là Đạo trí.

Nhưng mà hai trí này đều là Thế tục trí thâu nhiếp, bởi vì không phải là trí của mười sáu hành tướng. Hoặc có lúc trong thân tuy có ba mươi hai tướng mà không có Thánh pháp, đó là dị sinh như Chuyển Luân Vương. Hoặc có lúc trong thân tuy có Thánh pháp mà không có ba mươi hai tướng, đó là không phải Luân Vương và hàng Thanh văn. Hoặc có lúc trong thân có ba mươi hai tướng cũng có Thánh pháp mà không phải là Phật, đó là như Luân Vương Hưởng Khư, đã có được Thánh đạo. Hoặc có lúc trong thân không có ba mươi hai tướng cũng không có Thánh pháp, đó là những dị sinh còn lại. Tất cả thân Phật chắc chắn có ba mươi hai tướng Vô thượng và Thánh pháp Vô thượng, đó là Chánh đẳng Bồ-đề.

Hỏi: Vì sao trong này chỉ nói là đối với nghiệp dị thục của tướng mà chuyển gọi là Nhân trí, không nói là đối với bốn Ba-la-mật-đa mà chuyển gọi là Nhân trí?

Đáp: Cần phải nói mà không nói, thì nên biết là nghĩa này có khác.

Lại nữa, nghiệp dị thục của tướng thì gần, bốn Ba-la-mật-đa thì xa, trong này nói đến gần chứ không nói đến xa.

Lại nữa, lúc tu về nghiệp dị thục của tướng thì biểu hiện rõ ràng, trời-người cùng nhận biết; bốn Ba-la-mật-đa thì không như vậy, trong này thuận theo hiển bày mà nói.

Lại nữa, lúc tu về nghiệp dị thục của tướng, thì Bồ-đề quyết định mà nẽo cũng quyết định; lúc tu bốn Ba-la-mật-đa, thì Bồ-đề tuy quyết định mà nẽo chưa quyết định, vì thế cho nên không nói.

Lại nữa, trong này nói nhận biết nhân gần của thân, nhân gần của Bồ-đề, nghiệp dị thục của tướng là nhân gần của thân, Căn-Lực…vô lậu là nhân gần của Bồ-đề; bốn Ba-la-mật-đa và quán Bất tịnh… không phải là hai nhân gần, vì thế cho nên không nói.

Như nói: “Tỳ kheo này ngay nơi pháp hiện tại sẽ phân rõ tôn chỉ của bậc Thánh…”

Hỏi: Vì sao soạn ra phần luận này?

Đáp: Bởi vì muốn phân biệt nghĩa lý trong kinh. Như kinh Tự Tứ nói: “Tỳ kheo này ngay nơi pháp hiện tại sẽ phân rõ tôn chỉ của bậc Thánh, có thể tự mình biết rõ ràng, đời sống của mình đã hết, Phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, không nhận lấy thân đời sau, được nhập Niết-bàn.” Kinh ấy tuy nói ra điều này mà không phân biệt đây là trí nào, trí này đối với nơi nào mà chuyển? Kinh ấy là nơi nương tựa căn bản của luận này, điều gì trong kinh không phân biệt, thì nay cần phải phân biệt, cho nên soạn ra phần luận này.

Hỏi: Như nói: “Tỳ kheo này ngay nơi pháp hiện tại sẽ phân rõ tôn chỉ của bậc Thánh…” Đây là trí nào?

Đáp: Đạo trí.

Hỏi: Trí này đối với nơi nào mà chuyển?

Đáp: Trí này đối với Căn-Lực-Giác chi-Đạo chi vô lậu đạt được các lậu vĩnh viễn không còn mà chuyển, vì vậy gọi là Đạo trí. Đây chính là trí của Như Lai quán sát về Căn-Lực-Giác chi-Đạo chi vô lậu đạt được các lậu vĩnh viễn không còn của các Tỳ kheo, trí đối với đạo mà chuyển cho nên gọi là Đạo trí. Trí này cũng là Thế tục trí thâu nhiếp, bởi vì không phải là trí vô lậu của mười sáu hành tướng.

Hỏi: Vì sao trong này không nói đến Nhân trí?

Đáp: Có người nói: Trong này nên đưa ra cách nói này: “Đây là trí nào? Đáp: Nhân trí và Đạo trí. Trí này đối với nơi nào mà chuyển? Đáp: Có lúc đối với căn thiện thuận phần giải thoát… mà chuyển, vì vậy gọi là Nhân trí; có lúc đối với Căn-Lực-Giác chi-Đạo chi vô lậu đạt được các lậu vĩnh viễn không còn mà chuyển, vì vậy gọi là Đạo trí.” Mà không đưa ra cách nói này, thì nên biết là nghĩa này có khác.

Có người nói: Gia hạnh của Bồ-đề Vô thượng rộng lớn, trải qua ba Vô số kiếp, trăm kiếp mới thành, nhân ấy đáng coi trọng, cho nên nói đến trí quán xét điều ấy. Gia hạnh của Bồ-đề Thanh văn nhỏ hẹp, đó là nhanh nhất thì ba đời sẽ đạt được, đời thứ nhất gieo giống, đời thứ hai thành thục, đời thứ ba giải thoát, nhân không phải là đáng coi trọng, cho nên không nói đến trí quán xét điều ấy.

Có người nói: Sở y-chủng tánh-nghiệp dị thục về tướng của Bồ-tát đều quyết định, cho nên nói đến trí nhận biết về điều ấy; sở y-chủng tánh-căn thiện thuận phần giải thoát của Thanh văn đều không quyết định, cho nên không nói đến trí nhận biết về điều ấy.

Có người nói: Đức Phật có hai sự thù thắng, một là thân sở y, hai là Bồ-đề đã đạt được, bởi vì quán xét đầy đủ nhân ấy cho nên nói đến trí nhận biết hai loại nhân; Thanh văn chỉ có sự thù thắng thuộc Bồ-đề đã đạt được, không phải là thân sở y, cho nên chỉ nói đến trí nhận biết về nhân Bồ-đề.

Có người nói: Trí nhận biết về căn thiện thuận phần giải thoát… trước đây cũng không nói, cho nên ở trong này không cần phải đưa ra câu hỏi.

Nguyện trí là thế nào? Cho đến nói rộng ra.

Hỏi: Vì sao soạn ra phần luận này?

Đáp: Trước đây tuy nói về tác dụng của Nguyện trí, mà chưa nói đến tự tánh của Nguyện trí, nay muốn nói đến điều ấy cho nên soạn ra phần luận này.

Hỏi: Nguyện trí là thế nào?

Đáp: Như A-la-hán thành tựu thần thông, đạt được tâm tự tại, tùy theo ý muốn biết rõ ý nghĩa, phát khởi Chánh nguyện rồi, liền tiến vào giới hạn (biên tế) của Tĩnh lự thứ tư, từ trong Định rời ra rồi như nguyện đều biết rõ. Tùy theo ý muốn biết rõ ý nghĩa.

Hỏi: Vì sao A-la-hán muốn biết rõ ý nghĩa?

Đáp: Bởi vì ba nhân duyên:

  1. Bởi vì lợi ích cho đệ tử.
  2. Bởi vì trú trì Phật pháp.
  3. Bởi vì biết thế gian yên ổn hay là không yên ổn.

Bởi vì lợi ích cho đệ tử, đó là A-la-hán đối với các đệ tử lúc tu quán hành, thì pháp cần phải quán xét họ tiến vào hàng Thánh lâu hay mau, tuổi thọ của mình không còn thì họ có thể tiến vào Chánh tánh ly sinh hay không? Giả sử không có thể tiến vào thì sau khi mình mạng chung, có người nào khác có thể dạy bảo khiến cho có thể tiến vào hay không? Như vậy đều dùng Nguyện trí mà nhận biết, những sự việc như vậy gọi là vì lợi ích cho đệ tử.

Bởi vì trú trì Phật pháp, đó là A-la-hán có lúc quản lý công việc của Phật-Pháp-Tăng như xây dựng tháp thờ-chùa chiền-nhà cửa (Suấtđổ-ba, Tỳ-ha-la, Tăng già lam)…, thì pháp cần phải quán xét lâu-mau sẽ hoàn thành, hết tuổi thọ của mình có thể hoàn thành hay không? Giả sử không hoàn thành thì sau khi mình mạng chung, có người nào khác có thể tiếp tục hoàn thành hay không? Hoặc có Quốc vương-Đại thần-Trưởng giả và những chủ buôn, muốn gây ra sự suy tổn đối với Phật pháp, có A-la-hán suy nghĩ muốn hóa độ, lập tức quán sát người ấy có thể hóa độ hay không? Giả sử có thể hóa độ thì sẽ lâu mau? Tuổi thọ của mình không còn thì sự hóa độ có kết quả hay không? Giả sử không có kết quả, thì sau khi mình mạng chung có ai có thể tiếp tục hay không? Như vậy đều dùng Nguyện trí mà nhận biết, những sự việc như vậy gọi là vì trú trì Phật pháp.

Bởi vì biết thế gian yên ổn hay là không yên ổn, đó là A-la-hán có lúc quán sát trong đất nước này và trong thời gian này, sẽ có những sự việc như tốt lành-sợ hãi-yên ổn-dịch bệnh…, muốn khiến cho mình và người nhận biết mà giữ lấy và rời bỏ, cho nên khởi lên Nguyện trí để nhận biết. Như xưa kia ở nước Ca-thấp-di-la này có vị vua tên gọi Thước-ca, bởi vì vua nước Phược-hát xâm phạm cướp đoạt tiến vào lãnh thổ, lúc ấy vua Thước-ca lập tức dẫn đầu binh lính muốn đánh nhau. Vị vua ấy bản tánh hiền từ nhân hậu, luôn luôn sợ nghiệp ác, thầm dấy lên nghĩ rằng: Không biết nay mình đánh nhau chắc chắn được thắng trận, giữ được ngôi vua hay không, nếu như sẽ thất bại thì chỉ giết hại dân chúng vô tội, lại chuốc lấy tội lỗi, chết sẽ rơi vào địa ngục, từng nghe trong ngôi chùa ấy có vị A-la-hán đạt được Nguyện trí vi diệu, mình nên đi đến hỏi xem! Nghĩ rồi lập tức đi đến, thật lòng quy y cung kính lễ lạy, cầu mong quyết đoán mối nghi của mình. Vị A-la-hán ấy liền trả lời nhà vua rằng: Tôi tuy đã từng đạt được trí này, nhưng bởi vì thiếu duyên giúp đỡ, thân lực yếu kém cho nên đã lâu không còn hiện rõ trước mắt. Lúc ấy nhà vua liền dùng các loại đồ ăn thức uống-đồ vật sinh hoạt tuyệt vời bậc nhất mà cung cấp cho vị ấy. Không bao lâu thì Tôn giả ấy có thể khởi lên Nguyện trí, lập tức quán sát cho nhà vua, thì thấy vua Phược-hát chắc chắn sẽ đoạt được ngôi vị của vua Thước-ca, làm nhiều điều lợi ích. Thấy rồi liền trả lời vua Thước-ca rằng: Nhà vua sẽ mất đất nước, mong tự mình suy nghĩ cẩn thận! Vua Thước-ca vâng dạ cung kính, liền dẫn đầu binh lính và mang theo quyến thuộc, rời bỏ đất nước mà đi đến xứ sở khác. Bởi vì nhân duyên này, cho nên các Ala-hán muốn biết rõ ý nghĩa ấy. Tiến vào giới hạn của Tĩnh lự thứ tư.

Hỏi: Vì sao gọi là giới hạn của Tĩnh lự thứ tư?

Đáp: Đây là dấu hiệu, là điểm cuối cùng, là khu rừng rậm rạp đối với Tĩnh lự thứ tư, cho nên gọi là giới hạn của Tĩnh lự thứ tư, chính là nghĩa thuộc phẩm thù thắng nhất của Tĩnh lự thứ tư; giống như đọt cây là điểm cao nhất trong thân cây, thì gọi là giới hạn của cây.

Có người nói: Đây là nơi nương tựa của các pháp công đức như dấu hiệu của trí, điểm cuối cùng của trí, khu rừng rậm rạp của trí…, cho nên gọi là giới hạn của Tĩnh lự thứ tư. Nghĩa là bởi vì các loại công đức như Vô lượng… xông ướp nối tiếp nhau rồi, mới khởi lên Định này. Dựa vào Định này mà khởi lên công đức, là dấu hiệu, là điểm cuối cùng, là khu rừng rậm rạp đối với các công đức; giống như Đề-hồ là vị thù thắng nhất trong sữa bò.

Có người nói: Trí này nên gọi là giới hạn sau cùng (hậu tế) của Tĩnh lự thứ tư. Giới hạn (tế) có ba loại:

  1. Giới hạn đầu tiên.
  2. Giới hạn khoảng giữa.
  3. Giới hạn sau cùng.

Ba giới hạn này tức là quá khứ-hiện tại-vị lai, như thứ tự ấy. Trong này, giới hạn đầu tiên do hai trí nhận biết, đó là Túc trú tùy niệm trí và Nguyện trí; giới hạn khoảng giữa cũng do hai trí nhận biết, đó là Tha tâm trí và Nguyện trí; giới hạn sau cùng chỉ do Nguyện trí nhận biết, bởi vì trong cảnh của vị lai chỉ có trí này. Vì thế cho nên trí này gọi là trí thuộc giới hạn sau cùng (hậu tế trí), có thể khởi lên Định này, gọi là giới hạn sau cùng của Tĩnh lự thứ tư.

Có người nói: Trí này nên gọi là chưa đến giới hạn (vị chí tế) của Tĩnh lự thứ tư. Giới hạn (tế) có ba loại:

  1. Chưa đến giới hạn.
  2. Đến giới hạn.
  3. Đã đến giới hạn.

Ba giới hạn này tức là vị lai-hiện tại-quá khứ, như thứ tự ấy. Như nhận biết hiện tại gọi là trí chưa đến giới hạn, nhận biết quá khứ gọi là trí đã đến giới hạn, như vậy trí này phần nhiều nhận biết về vị lai, cho nên gọi là trí chưa đến giới hạn; có thể khởi lên Định này, gọi là chưa đến giới hạn của Tĩnh lự thứ tư.

Có người nói: Trí này chỉ nên gọi là giới hạn của Tĩnh lự thứ tư. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì Biên là gọi cho Uẩn-Giới-Xứ hiện tại, Tế là gọi cho quá khứ-vị lai. Như đối với Uẩn-Giới-Xứ hiện tại có trí hiện thấy mà chuyển, như vậy đối với quá khứ-vị lai cũng có trí hiện thấy mà chuyển, cho nên trí này gọi là trí của giới hạn (biên tế trí); có thể khởi lên Định này, gọi là giới hạn của Tĩnh lự thứ tư. Từ trong Định rời ra rồi như nguyện đều biết rõ.

Hỏi: Là đang còn Định mà nhận biết, hay là rời khỏi Định mà nhận biết? Nếu như vậy thì có gì sai? Nếu như đang còn Định mà nhận biết, thì tại sao trong này nói từ trong Định rời ra rồi như nguyện đều biết rõ? Nếu như rời khỏi Định mà nhận biết, thì tại sao cần phải tiến vào giới hạn của Tĩnh lự thứ tư?

Đáp: Ngay lúc đang còn Định có thể nhận biết.

Hỏi: Tại sao trong này nói từ trong Định rời ra rồi như nguyện đều biết rõ?

Đáp: Đây là ở lúc nói mà gọi là nhận biết, bởi vì nói là biểu hiện cho nhận biết.

Lại nữa, lúc bấy giờ làm cho người khác nhận biết cho nên gọi là nhận biết.

Có người nói: Rời khỏi Định có thể nhận biết.

Hỏi: Tại sao cần phải tiến vào Tĩnh lự thứ tư?

Đáp: Giới hạn của Tĩnh lự thứ tư là phương tiện nhận biết, bởi vì cần phải tiến vào Định này thì trí này mới sinh khởi.

Nói như vậy thì cách nói thứ nhất là hợp lý, bởi vì đang còn Định có thể nhận biết, rời khỏi Định mà nói rõ.

Hỏi: Tự tánh của Nguyện trí là gì?

Đáp: Tự tánh là Tuệ. Như tự tánh, như vậy bổn tánh và tánh tướng của Ngã-vật cũng như vậy.

Đã nói về tự tánh, nay sẽ nói đến nguyên cớ.

Hỏi: Vì sao gọi là Nguyện trí?

Đáp: Có thể nhận biết như nguyện, cho nên gọi là Nguyện trí.

Hỏi: Là có thể nhận biết như nguyện của mình, hay là có thể nhận biết như nguyện của người khác?

Đáp: Cũng nhận biết như nguyện của mình, cũng nhận biết như nguyện của người khác, bởi vì tùy theo nguyện vốn có đều có thể nhận biết.

Lại nữa, nhận biết về nguyện vốn có, cho nên gọi là Nguyện trí. Nguyện có hai loại, đó là nguyện về Bồ-đề và nguyện về quả báo. Nguyện về Bồ-đề là như các nguyện của Từ Thị, nguyện về quả báo là như các nguyện của A-thị-đa, nhận biết những nguyện này cho nên gọi là Nguyện trí.

Lại nữa, trí tùy theo nguyện mà khởi lên, cho nên gọi là Nguyện trí. Đó là bởi vì trí thù thắng này, cần phải do tác ý gia hạnh của nguyện trước đây mà dẫn dắt phát khởi; Như Lai tuy không có tác ý gia hạnh, mà cũng cần phải có tâm nguyện làm đầu tiên.

Có người nói: Trí này nên gọi là Kỳ trí, bởi vì cảnh nhận biết vô cùng vi tế, cần phải đưa ra hạn kỳ thì mới có thể nhận biết.

Có người nói: Trí này nên gọi là Diệu trí, bởi vì trí này thù thắng nhất trong các trí; như thế gian nói đồ ăn thức uống tuyệt vời, áo quần tuyệt vời…, đó là đối với thù thắng mà nói theo thanh tuyệt vời, ở đây cũng như vậy.

Nhưng Nguyện trí này: Nói về Cõi, thì cõi Sắc.

Nói về Địa, thì thuộc về địa Tĩnh lự thứ tư.

Nói về Sở y, thì dựa vào thân của cõi Dục.

Nói về Hành tướng, thì làm mười sáu hành tướng, hoặc là hành tướng khác.

Nói về Sở duyên, thì duyên với tất cả các pháp.

Nói về Niệm trú, thì bao gồm bốn Niệm trú.

Nói về Trí, thì A-tỳ-đạt-ma xưa kia nói là chỉ riêng Thế tục trí.

Có Sư khác nói: Tánh thuộc tám trí, trừ ra Tận trí và Vô sinh trí. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì hai trí ấy không phải là tánh thuộc Kiến, mà Nguyện trí là tánh thuộc Kiến.

Nói như vậy thì chỉ là một Thế tục trí.

Nói về Tam-ma-địa đi cùng, thì không đi cùng với Tam-ma-địa, bởi vì chỉ là hữu lậu.

Nói về Căn tương ưng, thì tương ưng với Xả căn.

Nói về Thời gian (thế), thì thuộc về ba thời gian; duyên với ba thời gian và tách lìa thời gian.

Nói về thiện-bất thiện-vô ký, thì đều là thiện; duyên với ba loại.

Nói về hệ thuộc ba cõi-không hệ thuộc, thì chỉ hệ thuộc cõi Sắc; duyên với hệ thuộc ba cõi và không hệ thuộc.

Nói về Học-Vô học và Phi học phi vô học, thì đều là Phi học phi vô học; duyên với ba loại.

Nói về do Kiến mà đoạn-do Tu mà đoạn và không đoạn, thì đều là do Tu mà đoạn; duyên với ba loại.

Nói về duyên với danh-duyên với nghĩa, thì duyên chung với danh và nghĩa.

Nói về duyên với Tự tương tục-Tha tương tục và Phi tương tục, thì duyên chung với ba loại.

Hỏi: Khởi lên ở nơi nào?

Đáp: Khởi lên ở cõi Dục chứ không phải là cõi Sắc-Vô sắc. Trong cõi Dục thì chỉ có loài người, chứ không phải là loài khác. Trong loài người thì chỉ có ba châu, chứ không phải là châu Bắc Câu-lô. Trong ba châu thì thân nam-thân nữ đều có thể khởi lên.

Tôn giả Cù-sa-phiệt-ma đưa ra cách nói như vậy: “Chỉ có châu Thiệm Bộ có thể khởi lên chứ không phải là châu khác, chỉ có người nam có thể khởi lên chứ không phải là người nữ. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì Nguyện trí thù thắng, cho nên cần phải dựa vào thân mạnh mẽ sắc bén tăng thượng, mà hai châu khác và thân nữ đều là yếu kém.”

Nói như vậy thì cách nói thứ nhất là hợp lý, ba châu và thân namthân nữ đều mạnh mẽ sắc bén tăng thượng, bởi vì đều có thể đạt được tâm tự tại và Định tự tại. Nếu không như vậy thì trong kinh không nên nói Đại sinh chủ là bậc Thượng thủ của năm trăm Tỳ kheo Ni, ở trong một ngày cùng lúc rời bỏ thọ mạng hiện hành mà nhập Niết-bàn. Nếu họ không đạt được giới hạn của Tĩnh lự thứ tư, thì không có thể rời bỏ đối với thọ mạng hiện hành. Đã đạt được điều này thì vì sao tự mình không có thể phát khởi Nguyện trí?

Hỏi: Những Bổ-đặc-già-la nào có thể khởi lên trí này?

Đáp: Thánh giả chứ không phải là dị sinh. Trong hàng Thánh chỉ có Vô học, không phải là Hữu học. Trong Vô học chỉ có Bất thời giải thoát, không phải là Thời giải thoát. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì nếu đối với Định đạt được tự tại, và trong sự nối tiếp nhau không bị phiền não níu giữ, thì có thể khởi lên Nguyện trí. Các dị sinh và Tín thắng giải cả hai sự việc đều không có; Kiến chí tuy đối với Định đạt được tự tại, mà trong sự nối tiếp nhau bị phiền não níu giữ; Thời giải thoát tuy sự nối tiếp nhau không bị phiền não níu giữ, mà đối với Định không đạt được tự tại; vì thế cho nên đều không có thể phát khởi Nguyện trí. Chỉ có Bất thời giải thoát đối với Định đạt được tự tại, và trong sự nối tiếp nhau không bị phiền não níu giữ, cho nên có thể khởi lên Nguyện trí.

******

Hỏi: Nguyện trí là gia hạnh đạt được, hay là lìa nhiễm đạt được?

Đáp: Có lúc là gia hạnh đạt được, có lúc là lìa nhiễm đạt được.

Trong này, có người nói: Đức Phật lìa nhiễm đạt được, bởi vì đạt được lúc Tận trí hiện khởi; Thanh văn-Độc giác do gia hạnh mà đạt được, bởi vì gia hạnh cho nên hiện rõ ở trước mắt.

Có người nói: Đức Phật và Độc giác đều lìa nhiễm đạt được, bởi vì đạt được lúc Tận trí hiện khởi; Thanh văn do gia hạnh mà đạt được, bởi vì gia hạnh cho nên hiện rõ ở trước mắt.

Có người nói: Đức Phật-Độc giác và Thanh văn đến cứu cánh đều lìa nhiễm đạt được, bởi vì đạt được lúc Tận trí hiện khởi; Thanh văn khác do gia hạnh mà đạt được, bởi vì gia hạnh mà hiện rõ ở trước mắt.

Nói như vậy là nếu quyết định có thể đạt được thì đó là lìa nhiễm đạt được, bởi vì đạt được lúc Tận trí hiện khởi, sau khi thực hiện gia hạnh mới hiện rõ ở trước mắt. Đức Phật không do gia hạnh, Độc giác do gia hạnh bậc Hạ, Thanh văn do gia hạnh bậc Trung hoặc là bậc Thượng.

Nhưng có lúc Nguyện trí do gia hạnh của Định Biên tế mà đạt được, bởi vì gia hạnh mà hiện rõ ở trước mắt.

Hỏi: Nguyện trí này gia hạnh như thế nào?

Đáp: Dùng tất cả các địa và Định Biên tế làm gia hạnh, đó là lúc người tu hành sắp khởi lên Nguyện trí này, trước hết khởi lên tâm thiện của cõi Dục, tiếp theo từ đây không gián đoạn tiến vào Tĩnh lự thứ nhất, tiếp theo tiến vào Tĩnh lự thứ hai, lần lượt cho đến tiến vào Phi tưởng phi phi tưởng xứ; từ Phi tưởng phi phi tưởng xứ rời ra lại tiến vào Vô sở hữu xứ, lần lượt cho đến tiến vào Tĩnh lự thứ nhất; từ Tĩnh lự thứ nhất rời ra lại tiến vào Tĩnh lự thứ hai, lần lượt cho đến tiến vào Tĩnh lự thứ tư. Lúc ấy đối với tất cả Đẳng chí của địa trên-địa dưới như vậy, xoay vòng tiến vào-rời ra đã khiến cho hết sức điều thuận với Tĩnh lự thứ tư. Lại đối với Tĩnh lự thứ tư, từ phẩm Hạ tiến vào phẩm Trung, từ phẩm Trung tiến vào phẩm Thượng, như vậy phẩm Thượng gọi là giới hạn của Tĩnh lự thứ tư, từ đây lần lượt dẫn dắt khởi lên Nguyện trí.

Vì thế cho nên Tôn giả Thế Hữu đưa ra cách nói như vậy: “Các A-la-hán bởi vì lợi ích cho người khác, cho nên đối với địa trên-địa dưới, xoay vòng tiến vào-rời ra khiến cho mềm mại thuận theo Tĩnh lự thứ tư, nếu lúc gia hạnh thông suốt không có ngừng trệ, thì lúc bấy giờ gọi là gia hạnh thành tựu đầy đủ, từ đây có thể dẫn dắt Nguyện trí hiện rõ trước mắt.”

Đại đức nói rằng: “Ở trong pháp không ngừng diệt đi-không ngừng khởi lên và cùng lúc sinh khởi, nhận biết rõ ràng phương tiện, nếu lúc gia hạnh thông suốt không có ngừng trệ, thì lúc bấy giờ gọi là gia hạnh thành tựu đầy đủ, từ đây dẫn dắt khởi lên Nguyện trí hiện rõ trước mắt.”

Hỏi: Túc trú tùy niệm trí và Nguyện trí duyên với quá khứ có gì sai biệt?

Đáp: Tên gọi tức là sai biệt, đó là loại này tên gọi Túc trú tùy niệm trí, loại này tên gọi Nguyện trí duyên với quá khứ.

Lại nữa, Túc trú tùy niệm trí nhận biết về năm uẩn hữu lậu của thời gian trước, Nguyện trí này nhận biết về các uẩn hữu lậu-vô lậu.

Lại nữa, Túc trú tùy niệm trí nhận biết về năm uẩn của thời gian trước ở cõi Dục-Sắc, Nguyện trí này nhận biết về các uẩn của ba cõi và không hệ thuộc.

Lại nữa, Túc trú tùy niệm trí nhận biết về cọng tướng của các uẩn, Nguyện trí này nhận biết về tự tướng và cọng tướng của các uẩn,

Lại nữa, Túc trú tùy niệm trí thì pháp này là có-pháp bên ngoài cũng là có, Nguyện trí này chỉ riêng pháp này là có.

Lại nữa, Túc trú tùy niệm trí thì dị sinh có-Thánh giả cũng có, Nguyện trí này chỉ riêng Thánh giả mới có.

Lại nữa, Túc trú tùy niệm trí thì Học-Vô học và Phi học phi vô học đều có, Nguyện trí này chỉ riêng Vô học mới có.

Lại nữa, Túc trú tùy niệm trí thì trong sự nối tiếp nhau của Thời giải thoát-Bất thời giải thoát đều có, Nguyện trí này chỉ có trong sự nối tiếp nhau của Bất thời giải thoát.

Lại nữa, Túc trú tùy niệm trí dựa vào bốn Tĩnh lự Căn bản, Nguyện trí này chỉ dựa vào Tĩnh lự Căn bản thứ tư.

Lại nữa, Túc trú tùy niệm trí bao gồm đã từng đạt được-chưa từng đạt được, đã từng luyện tập-chưa từng luyện tập, giống nhau-không giống nhau; Nguyện trí này chỉ riêng chưa từng đạt được-chưa từng luyện tập-không giống nhau.

Lại nữa, Túc trú tùy niệm trí lúc bắt đầu dẫn dắt phát khởi, chỉ có thể từng đời từng đời một lần lượt tùy theo niệm, sau lúc thành tựu đầy đủ thì hoặc là từng đời từng đời một lần lượt, hoặc là vượt qua trăm đời-ngàn đời…, tùy theo ý muốn ấy đều có thể tùy theo niệm; Nguyện trí này lúc bắt đầu dẫn dắt phát khởi và lúc thành tựu đầy đủ, hoặc là lần lượt-hoặc là vượt lên trên, như ý nguyện ấy đều nhận biết như thật.

Lại nữa, Nguyện trí này chỉ đối với cảnh đã nhận biết của Túc trú tùy niệm trí mà chuyển, tức là có sáu sự việc thù thắng:

  1. Mạnh mẽ thù thắng.
  2. Tăng thượng thù thắng.
  3. Vi diệu thù thắng.
  4. Thanh tịnh thù thắng.
  5. Sáng tỏ thù thắng.
  6. Nhanh chóng thù thắng.

Huống là nhiều sự việc khác nữa hay sao? Đó gọi là sự sai biệt của Túc trú tùy niệm trí và Nguyện trí duyên với quá khứ.

Hỏi: Tha tâm trí và Nguyện trí duyên với hiện tại có gì sai biệt?

Đáp: Tên gọi tức là sai biệt, đó là loại này tên gọi Tha tâm trí, loại này tên gọi Nguyện trí duyên với hiện tại.

Lại nữa, Tha tâm trí duyên với một vật làm cảnh, Nguyện trí này duyên với một vật hoặc là nhiều vật làm cảnh.

Lại nữa, Tha tâm trí duyên với cảnh thuộc tự tướng, Nguyện trí này duyên với cảnh thuộc tự tướng và cọng tướng.

Lại nữa, Tha tâm trí duyên với sự nối tiếp nhau của người khác, Nguyện trí này duyên với sự nối tiếp nhau của mình và người khác.

Lại nữa, Tha tâm trí duyên với tâm-tâm sở pháp, Nguyện trí này duyên với năm uẩn.

Lại nữa, Tha tâm trí dựa vào bốn Tĩnh lự Căn bản, Nguyện trí này chỉ dựa vào Tĩnh lự Căn bản thứ tư.

Lại nữa, Tha tâm trí thì pháp này là có-pháp bên ngoài cũng là có, Nguyện trí này chỉ riêng pháp này là có.

Lại nữa, Tha tâm trí thì dị sinh có-Thánh giả cũng có, Nguyện trí này chỉ Thánh giả mới có.

Lại nữa, Tha tâm trí thì Học-Vô học và Phi học phi vô học đều có, Nguyện trí này chỉ riêng Vô học mới có.

Lại nữa, Tha tâm trí thì trong sự nối tiếp nhau của Thời giải thoátBất thời giải thoát đều có, Nguyện trí này chỉ có trong sự nối tiếp nhau của Bất thời giải thoát.

Lại nữa, Tha tâm trí bao gồm đã từng đạt được-chưa từng đạt được, đã từng luyện tập-chưa từng luyện tập, giống nhau-không giống nhau; Nguyện trí này chỉ riêng chưa từng đạt được-chưa từng luyện tậpkhông giống nhau.

Lại nữa, Tha tâm trí bao gồm hữu lậu-vô lậu, Nguyện trí này chỉ riêng hữu lậu.

Lại nữa, Tha tâm trí duyên với pháp hệ thuộc cõi Dục-Sắc và pháp không hệ thuộc làm cảnh, Nguyện trí này duyên với pháp hệ thuộc ba cõi và pháp không hệ thuộc làm cảnh.

Lại nữa, Nguyện trí này chỉ đối với cảnh đã nhận biết của Tha tâm trí mà chuyển, tức là có sáu sự việc thù thắng, đó là mạnh mẽ thù thắng…, nói như trước. Huống là nhiều sự việc khác nữa hay sao?

Đó gọi là sự sai biệt của Tha tâm trí và Nguyện trí duyên với hiện tại.

Hỏi: Vì sao Nguyện trí có thể nhận biết vị lai?

Đáp: Có người nói: Dùng quá khứ-hiện tại để so sánh mà nhận biết vị lai, ví như người làm ruộng gieo hạt giống rồi, so sánh mà nhận biết nhất định có kết quả sinh ra như vậy, trí ấy cũng như vậy.

Có người nói: Nếu như vậy thì Nguyện trí phải là trí Tỉ lượng, không phải là trí Hiện lượng. Nên đưa ra cách nói này: Nguyện trí này không cần phải quán xét nhân mà có thể nhận biết quả, không cần phải quán xét quả mà có thể nhận biết nhân, vì thế cho nên trí này là trí Hiện lượng chứ không phải là trí Tỉ lượng.

Hỏi: Vì sao Nguyện trí nhận biết về cõi Vô sắc?

Đáp: Có người nói: Bởi vì quán xét sự sai biệt của Đẳng lưu và hiện hành, như nhìn người đi trên đường mà biết là từ nơi nào đến.

Có người nói: Nếu như vậy thì Nguyện trí phải là trí Tỉ lượng, không phải là trí Hiện lượng. Nên đưa ra cách nói này: Nguyện trí này không quán xét nhân mà nhận biết quả, không quán xéy quả mà nhận biết nhân, bởi vì trí này là trí Hiện lượng chứ không phải là trí Tỉ lượng.

Nhưng Thanh văn-Độc giác bởi vì có lỗi lầm do tập khí còn sót lại, cho nên đối với cảnh của nguyện phải gia hạnh thì mới nhận biết;

Như Lai vĩnh viễn không còn lỗi lầm của tập khí còn sót lại, cho nên đối với nguyện thì khởi tâm liền nhận biết.

Hỏi: Nguyện trí của Đức Thế Tôn vì sao có thể nhận biết tâm tướng sai biệt của tất cả hữu tình?

Đáp: Có người nói: Điều này không cần phải hỏi. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì đây là cảnh giới không thể nghĩ bàn của chư Phật.

Có người nói: Trước đây đã phân biệt so sánh mà bây giờ có thể nhận biết.

Có người nói: Bởi vì giữ lấy một phần của Thức đã nhận biết về tâm tướng sai biệt của hữu tình, tương tự mà nhận biết những hữu tình khác. Như lúc thế giới hoại đi, phần nhiều hữu tình sinh đến cõi trời Cực Quang Tịnh, ở cõi ấy lần lượt xoay vòng hỏi han về sự việc của đời trước, sau đó dùng Túc trú tùy niệm trí mà nhận biết; Đức Phật cũng như vậy.

Có người nói: Đức Phật dễ dàng thông hiểu đối với duyên khởi, cho nên nhận biết.

Có người nói: Đức Phật tự tại đối với Nguyện trí, cho nên nhận biết.

Có người nói: Đức Phật dễ dàng thông hiểu đối với nghiệp của mình, cho nên nhận biết.

Có người nói: Đức Phật dễ dàng thông hiểu đối với Đẳng lưu, cho nên nhận biết.

Có người nói: Đức Phật dễ dàng thông hiểu đối với hiện hành sai biệt, cho nên nhận biết.

Tôn giả nói rằng: “Đức Phật đối với tâm giới của hữu tình, muốn biết liền biết chứ không nhờ vào gia hạnh, cho nên không cần phải vặn hỏi, bởi vì lúc bắt đầu đạt được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì chủng loại của trí này đều đã đạt được.”

Hỏi: Vì sao phát khởi Nguyện trí như vậy?

Đáp: Bởi vì làm lợi ích cho người khác. Nghĩa là trước khi khởi lên Nguyện trí, phải quán xét ý thích sai biệt của các hữu tình, sau đó tùy theo thích hợp để làm sự việc lợi ích; ví như thầy thuốc giỏi, trước phải quan sát về tướng trạng sai biệt của người bệnh, rồi sau đó mới trao cho thuốc uống.

Hỏi: Nguyện trí nên nói là thiện, hay là vô ký? Đáp: Hoặc là thiện, hoặc là vô ký.

Trong này, có người nói: Nguyện trí chỉ là một, đó là thuộc về Tĩnh lự thứ tư, chỉ là thiện.

Có người nói: Nguyện trí có hai, đó là thuộc về Tĩnh lự thứ tư và

cõi Dục, đều chỉ là thiện.

Có người nói: Nguyện trí có ba, đó là thiện của Tĩnh lự thứ tư, thiện-vô ký của cõi Dục.

Có người nói: Nguyện trí có năm, đó là bốn Tĩnh lự và cõi Dục, đều chỉ là thiện.

Có người nói: Nguyện trí có sáu, đó là thiện của bốn Tĩnh lự, thiện-vô ký của cõi Dục.

Có người nói: Nguyện trí có bảy, đó là ba tĩnh lự trên chỉ là thiện, Tĩnh lự thứ nhất và cõi Dục đều là thiện-vô ký.

Có người nói: Nguyện trí có mười, đó là bốn Tĩnh lự và cõi Dục, đều có thiện-vô ký.

Nói như vậy thì nên biết như trước nói có sáu là thích hợp.

Hỏi: Nguyện trí chỉ thuộc về Tĩnh lự thứ tư, lại chỉ là thiện, vì sao lại nói là thiện của bốn Tĩnh lự, thiện-vô ký của cõi Dục?

Đáp: Nguyện trí thật ra chỉ thuộc về Tĩnh lự thứ tư và chỉ là thiện, nhưng trong này dựa vào ý sâu kín mà nói, bởi vì Nguyện trí và sau Nguyện trí cùng chung duyên khởi mà nói là trí, cho nên đều gọi là Nguyện trí.

Sự việc ấy như thế nào? Đó là Sư Du-già trước tiên dựa vào Tĩnh lự thứ tư phát khởi Nguyện trí mà nhận biết về pháp đã nhận biết, vẫn duyên với pháp này tiến vào Tĩnh lự thứ ba, lần lượt cho đến vẫn duyên vào pháp này, khởi lên tâm thiện của cõi Dục; từ đây không gián đoạn vẫn duyên vào pháp này, khởi lên tâm thiện hoặc là tâm vô ký của cõi Dục, mà nói về pháp đã nhận biết.

Trong này, hoặc là Căn bản, hoặc là dấy khởi sau, đều nói tên gọi là Nguyện trí, vì thế cho nên nói hoặc là thiện, hoặc là vô ký.

Thế nào là hạnh Vô tranh? Cho đến nói rộng ra.

Hỏi: Vì sao soạn ra phần luận này?

Đáp: Bởi vì muốn phân biệt nghĩa lý trong kinh. Như trong kinh nói: “Trong đệ tử của Ta, Tỳ kheo Thiện Hiện là bậc nhất trú trong hạnh Vô tranh.” Trong kinh tuy nói ra điều này mà không phân biệt rộng ra, thế nào là hạnh Vô tranh, Vô tranh gọi cho pháp nào? Kinh ấy là nơi nương tựa căn bản của luận này, điều gì trong kinh không giải thích, thì nay cần phải giải thích, cho nên soạn ra phần luận này.

Hỏi: Thế nào là hạnh Vô tranh?

Đáp: Tất cả A-la-hán khéo thông hiểu về thời gian bên trong, nhưng bên ngoài thì không như vậy. Nếu cũng khéo thông hiểu về thời gian bên ngoài thì gọi là hạnh Vô tranh.

Thế nào là thời gian bên trong (nội thời)? Đó là phiền não vốn có trong sự nối tiếp nhau của mình. Thế nào là thời gian bên ngoài (ngoại thời)? Đó là phiền não vốn có trong sự nối tiếp nhau của người khác. Ngăn chặn phiền não này thì gọi là khéo thông hiểu.

Tất cả A-la-hán đối với phiền não vốn có trong sự nối tiếp nhau của mình, đều đã ngăn chặn và đoạn bỏ; đối với phiền não vốn có trong sự nối tiếp nhau của người khác, thì không quyết định. Nếu cũng có thể ngăn chặn thì gọi là hạnh Vô tranh.

Có người nói: Thời gọi là ba thời, tức là thời gian đầu ngày-thời gian giữa ngày-thời gian cuối ngày, ở trong ba thời gian này chế ngự các phiền não, gọi là khéo thông hiểu. Tất cả A-la-hán đối với phiền não thuộc ba thời gian trong sự nối tiếp nhau của mình, đều đã chế ngự và đoạn bỏ; đối với phiền não thuộc ba thời gian trong sự nối tiếp nhau của người khác, thì không quyết định. Nếu cũng có thể chế ngự thì gọi là hạnh Vô tranh.

Có người nói: Thời gọi là sáu thời, tức là ngày và đêm đều có ba thời gian đầu-giữa-cuối, ở trong sáu thời gian này chế ngự các phiền não, gọi là khéo thông hiểu. Tất cả A-la-hán đối với phiền não thuộc sáu thời gian trong sự nối tiếp nhau của mình, đều đã chế ngự và đoạn bỏ; đối với phiền não thuộc sáu thời gian trong sự nối tiếp nhau của người khác, thì không quyết định. Nếu cũng có thể chế ngự thì gọi là hạnh Vô tranh.

Tôn giả Diệu Âm nói rằng: “Không phải là nói không có phiền não tranh chấp trong sự nối tiếp nhau của mình, cho nên gọi là hạnh Vô tranh; chỉ bởi vì có thể ngăn chặn phiền não tranh chấp trong sự nối tiếp nhau của người khác, cho nên gọi là hạnh Vô tranh. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì tranh chấp là đối với người khác mà nói, chứ không phải là đối với chính mình.”

Hỏi: Vì sao ngăn chặn và chế ngự phiền não, gọi là khéo thông hiểu?

Đáp: Cần phải nhờ vào phương tiện Giác Tuệ hiện rõ trước mắt, thì mới có thể ngăn chặn và chế ngự phiền não của mình-của người, cho nên gọi là khéo thông hiểu.

Hỏi: Vô tranh gọi cho pháp nào?

Đáp: Khiến cho sự nối tiếp nhau của người khác không có tạp uế mà chuyển, nghĩa là các phiền não luôn luôn làm thấm ướt-giây bẩntạp uế. Người đạt được Vô tranh thì không làm cho phiền não trong sự nối tiếp nhau của người khác bị thấm ướt-giây bẩn-tạp uế; tức là nghĩa về sự xa lìa các phiền não trong sự nối tiếp nhau của người khác.

Có người nói: Văn này nên nói đối với sự nối tiếp nhau của người khác không có gì sót lại mà chuyển, nghĩa là người đạt được Vô tranh, như đối với phiền não trong sự nối tiếp nhau của mình đã vĩnh viễn đoạn trừ không có gì sót lại, như vậy đối với phiền não trong sự nối tiếp nhau của người khác cũng có thể ngăn chặn và chế ngự khiến cho không có gì sót lại; tức là nghĩa về ngăn chặn tất cả các phiền não trong sự nối tiếp nhau của người khác sẽ làm cho họ khởi lên.

Có người nói: Văn này nên nói đối với sự nối tiếp nhau của người khác không có gì sai biệt mà chuyển, nghĩa là người đạt được Vô tranh, như có thể ngăn chặn phiền não trong sự nối tiếp nhau của người thân khiến cho họ không sinh khởi, như vậy cũng có thể ngăn chặn phiền não trong sự nối tiếp nhau của kẻ oán-người bình thường, khiến cho họ không sinh khởi; tức là nghĩa về bình đẳng ngăn chặn và chế ngự các phiền não trong sự nối tiếp nhau của người khác.

Hỏi: Khéo thông hiểu thời gian bên ngoài và không có tạp uế mà chuyển, có gì sai biệt? Đáp: Khéo thông hiểu thời gian bên ngoài, đó là Tuệ; không có tạp uế mà chuyển, đó là phiền não không sinh khởi.

Lại nữa, A-la-hán ấy thực hành năm loại pháp, khiến cho phiền não trong sự nối tiếp nhau của người khác không khởi lên. Những gì là năm pháp? Đó là:

  1. Oai nghi lộ trong sáng.
  2. Nói năng và im lặng hợp thời.
  3. Khéo lường tính đi hay ở.
  4. Phân biệt nên nhận hay không nên nhận.
  5. Quán sát Bổ-đặc-già-la.

Oai nghi lộ trong sáng, nghĩa là A-la-hán ấy trước đó ngồi ở một nơi, nếu người khác đến thì quán xét tâm ý của họ, dùng oai nghi nào để họ không dấy khởi phiền não? Nếu biết là do oai nghi này mà họ sinh ra phiền não, thì liền rời bỏ oai nghi này trú vào oai nghi khác. Nếu không dấy khởi phiền não thì như trước đây trú trong oai nghi ban đầu, trú trong oai nghi khác cũng như vậy.

Nói năng và im lặng hợp thời, nghĩa là A-la-hán ấy lúc thấy người khác đến thì quán xét tâm ý của họ, là nên trò chuyện với nhau, hay là nên im lặng? Quán xét rồi nếu thấy trò chuyện mà dấy khởi phiền não cho họ, thì tuy rất muốn nói nhưng vẫn im lặng. Nếu thấy bởi vì im lặng mà họ dấy khởi phiền não, thì tuy không muốn nói mà vẫn nói chuyện với họ. Nếu đi trên đường thấy có hai người đi đến, thì quán xét người nào thích hợp để có thể nói chuyện trước? Quán xét rồi nếu thấy lúc trò chuyện với người này mà người kia dấy khởi phiền não, thì nói chuyện với người kia; đối với người kia cũng như vậy. Nếu cùng trò chuyện với cả hai mà dấy khởi phiền não, thì liền im lặng; im lặng với cả hai cũng như vậy. Nếu nói chuyện hay là im lặng đều dấy khởi phiền não, thì tránh đường cho họ, để không dấy khởi phiền não.

Khéo lường tính đi hay ở, nghĩa là A-la-hán ấy tùy theo nơi cư trú thì liền quán sát, mình nên ở lại hay là nên đi? Nếu thấy lúc ở lại mà dấy khởi phiền não cho người khác, thì nơi cư trú tuy yên ổn, đồ vật sinh hoạt đầy đủ dồi dào, tùy thuận với phẩm thiện mà vẫn ra đi. Nếu thấy bởi vì ra đi mà dấy khởi phiền não cho người khác, thì nơi cư trú tuy không yên ổn, đồ vật sinh hoạt không đầy đủ, không tùy thuận với phẩm thiện mà vẫn chịu khó ở lại.

Phân biệt nên nhận hay không nên nhận, nghĩa là A-la-hán ấy nếu có Thí chủ đem đồ vật sinh hoạt đến giúp đỡ, thì quán xét tâm ý của họ là nhận hay không nên nhận? Quán xét rồi nếu thấy nhận mà dấy khởi phiền não cho họ, thì tuy là đồ vật cần dùng mà vẫn không nhận. Nếu thấy không nhận mà dấy khởi phiền não cho họ, thì tuy là đồ vật không cần dùng mà vẫn cố ý nhận.

Quán sát Bổ-đặc-già-la, nghĩa là A-la-hán ấy bởi vì khất thực cho nên phải đi vào thành ấp-ngõ xóm và nhà người khác, quán sát trai gáigià trẻ trong này, đừng có ai bởi vì mình mà dấy khởi các phiền não. Nếu biết là họ không dấy khởi thì đi vào khất thực. Nếu biết là họ dấy khởi, thì tuy là rất đói mà vẫn không đi vào. Không có sự việc như vậy để phân biệt, cho nên giả sử tất cả hữu tình, bởi vì thấy mình mà khởi lên phiền não, thì mình sẽ đi đến một nơi không có hữu tình, đoạn tuyệt ăn uống mà chết, chứ hoàn toàn không làm cho người khác bởi vì mình mà khởi lên phiền não.

A-la-hán ấy tu tập thực hành năm loại pháp hành như vậy, thì có thể ngăn chặn phiền não trong sự nối tiếp nhau của người khác, khiến cho không hiện rõ trước mắt.

Hỏi: Vì sao A-la-hán đã đạt được giải thoát, mà tu về pháp này để tự trói buộc mình?

Đáp: A-la-hán ấy trước đây là chủng tánh Bồ-tát, không đành lòng để hữu tình tạo ra điều ác chuốc lấy khổ đau, bởi vì cứu giúp họ cho nên luôn luôn dấy lên nghĩ rằng: Mình từ vô thỉ đến nay cùng với các hữu tình khởi lên ràng buộc với nhau, xoay vòng trong năm nẽo nhận chịu những khổ đau khốc liệt, mình may mắn được thoát khỏi thì phải cứu giúp cho họ.

Lại dấy lên nghĩ rằng: Mình từ vô thỉ đến nay, có lúc làm những thân ca nhi-vũ nữ, có lúc làm thân dâm nữ hèn hạ xấu xa…, trăm ngàn chúng sinh do mình mà khởi lên phiền não, còn bởi vì điều này mà nhận chịu đau khổ trong dòng sinh tử dằng dặc, huống gì bây giờ mình lìa tham-sân-si làm ruộng phước cho thế gian, họ khởi lên phiền não với mình mà không chuốc lấy khổ đau hay sao, vì vậy bây giờ mình không nên trở lại làm nhân duyên của phiền não! Do đó A-la-hán tuy tự mình giải thoát mà vì hữu tình cho nên khởi lên thực hành về hạnh Vô tranh.

Hỏi: Đó là ngăn chặn phiền não thuộc tự tướng của người khác, hay là cọng tướng?

Đáp: Chỉ riêng tự tướng có thể ngăn chặn, không phải là cọng tướng. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì phiền não thuộc cọng tướng, tùy theo sự thích hợp của nó, cùng một lúc duyên chung với một cõi-một địa-một xứ-một loại, một thân đã đạt được, chấp Ngã-ngã sở, hoặc là chấp Đoạn-Thường, hoặc gạt bỏ cho là không có, hoặc là chấp bậc nhất, hoặc là chấp có thể thanh tịnh, hoặc là khởi lên do dự, Vô minh không hiểu biết, tất cả hữu tình luôn luôn tùy ý khởi lên, không có thể ngăn chặn được. Vì thế cho nên chỉ ngăn chặn phiền não thuộc tự tướng.

Hỏi: Tự tánh của hạnh Vô tranh như thế nào, là Định hay là Tuệ? Giả sử như vậy thì có gì sai? Nếu là Định thì văn này nên hiểu thế nào? Như nói: “Khéo thông hiểu thời gian bên ngoài thì gọi là hạnh Vô tranh, khéo thông hiểu là Tuệ.” Nếu là Tuệ thì văn khác nói nên hiểu thế

nào? Như nói: “Cần phải luyện tập về Tĩnh Định-Vô tranh.” Đáp: Nên nói là Tuệ.

Hỏi: Nếu như vậy thì tại sao nói là cần phải luyện tập về Tĩnh Định-Vô tranh?

Đáp: Văn ấy nên nói là cần phải luyện tập về Tĩnh Tuệ-Vô tranh, mà nói là cần phải luyện tập về Tĩnh Định-Vô tranh, bởi vì muốn hiển bày đi cùng với Định cho nên gọi là Định, mà thật sự là Tuệ. Đó gọi là tự tánh của Vô tranh. Như tự tánh, Ngã-vật… cũng như vậy.

Đã nói về tự tánh, nay sẽ nói đến nguyên cớ.

Hỏi: Vì sao gọi là hạnh Vô tranh?

Đáp: Bởi vì hạnh này có thể đối trị với phiền não tranh chấp của người khác, cho nên gọi là hạnh Vô tranh. Nhưng tranh chấp (tranh) có ba loại:

  1. Tranh chấp thuộc phiền não.
  2. Tranh chấp thuộc uẩn.
  3. Tranh chấp đấu đá.

Tranh chấp thuộc phiền não, đó là một trăm lẻ tám phiền não. Tranh chấp thuộc uẩn, đó là cái chết. Tranh chấp đấu đá, đó là các hữu tình xúc phạm nhục mạ lẫn nhau, lời nói chống đối lẫn nhau. Nên biết trong này nói đến tranh chấp thuộc phiền não, bởi vì ngăn chặn hữu tình khởi lên phiền não.

Lại có người nói: Bởi vì hạnh này có thể làm cho mình và người không có tranh chấp, cho nên gọi là hạnh Vô tranh, tức là nghĩa của khéo tu về hạnh Vô ngã. Vì thế cho nên Tôn giả Thiện Hiện đã từng ở lúc sẩm tối, đến một ngôi chùa gõ cửa mà đứng đợi, Tỳ kheo bên trong cửa hỏi rằng là ai? Tôn giả Thiện Hiện bởi vì trú trong Vô tranh trải qua thời gian dài tu về hạnh Vô ngã thuần thục, cho nên im lặng không có thể trả lời rằng tôi là Thiện Hiện. Hồi lâu mới nói: Đây là do thế gian tạm thời đặt ra tên gọi là Thiện Hiện. Vả lại, Tôn giả ấy đã từng đi đường gặp phải trời mưa, đến tránh mưa bên cổng nhà của một ngoại đạo, ngoại đạo ấy hỏi rằng: Nhân giả tên gọi như thế nào? Tôn giả Thiện Hiện bởi vì trú trong Vô tranh trải qua thời gian dài tu về hạnh Vô ngã thuần thục, cho nên im lặng không có thể trả lời rằng tôi là Thiện Hiện. Đã hỏi nhiều lần, mới từ từ trả lời rằng: Đây là do thế gian tạm thời đặt ra tên gọi là Thiện Hiện. Cho nên biết rằng khéo tu về hạnh Vô ngã, làm cho mình và người không có tranh chấp, cho nên gọi là hạnh Vô tranh.

Có người nói: Các Sư Du-già bởi vì trú trong hạnh này mà ở trong cảnh có đủ yêu quý-không yêu quý, thích hợp-không thích hợp, vừa ýkhông vừa ý, có lợi-không có lợi, khổ hay vui, thảy đều không có tranh chấp, cho nên gọi là hạnh Vô tranh.

Lại nữa, Vô tranh: Nói về Cõi, là rơi vào cõi Sắc. Có người nói:

Rơi vào cõi Dục-Sắc.

Nói như vậy thì cách nói thứ nhất là hợp lý.

Nói về Địa, là thuộc về địa Tĩnh lự thứ tư. Có người nói: Thuộc về năm địa, đó là bốn Tĩnh lự và cõi Dục.

Nói như vậy thì cách nói thứ nhất là hợp lý.

Nói về Sở y, là dựa vào thân của cõi Dục.

Nói về Hành tướng, là hành tướng không rõ ràng.

Nói về Sở duyên, là duyên với cõi Dục, ở trong cõi Dục chỉ duyên với phiền não. Có người nói: Duyên chung với năm uẩn của cõi Dục.

Nói như vậy thì cách nói thứ nhất là hợp lý.

Nói về Niệm trú, là Pháp niệm trú. Có người nói: Bao gồm bốn Niệm trú.

Nói như vậy thì Pháp niệm trú là hợp lý.

Nói về Trí, là Thế tục trí.

Nói về Tam-ma-địa đi cùng, không phải là đi cùng với Tam-mađịa.

Nói về Căn tương ưng, là tương ưng với Xả căn.

Nói về Thời gian(thế), là rơi vào ba thời gian; duyên với vị lai.

Nói về thiện-bất thiện-vô ký, là thiện; duyên với bất thiện. Có người nói: Duyên chung với bất thiện-vô ký mà phần nhiều duyên với bất thiện.

Nói về hệ thuộc ba cõi-không hệ thuộc, là hệ thuộc cõi Sắc; duyên với hệ thuộc cõi Dục.

Nói về Học-Vô học-Phi học phi vô học, là Phi học phi vô học; duyên với Phi học phi vô học.

Nói về do Kiến mà đoạn-do Tu mà đoạn và không đoạn, là do Tu mà đoạn; duyên với do Tu mà đoạn. Có người nói: Duyên chung với do Kiến-Tu mà đoạn, nhưng phần nhiều duyên với do Tu mà đoạn.

Nói về duyên với danh-duyên với nghĩa, thì chỉ duyên với nghĩa.

Nói về duyên với Tự tương tục-Tha tương tục và Phi tương tục, chỉ duyên với Tha tương tục. Có người nói: Duyên chung với Tự-Tha tương tục, nhưng phần nhiều duyên với Tha tương tục.

Khởi lên ở nơi nào? Nên nói là khởi lên ở cõi Dục chứ không phải là cõi Sắc-Vô sắc. Trong cõi Dục thì chỉ có loài người, chứ không phải là loài khác. Trong loài người thì chỉ có ba châu, chứ không phải là châu Bắc Câu-lô. Trong ba châu thì người nam-người nữ đều có thể khởi lên.

Tôn giả Chúng Thế nói rằng: “Chỉ có châu Thiệm Bộ, chỉ có người nam có thể khởi lên.”

Nói như vậy thì cách nói thứ nhất là hợp lý.

Những Bổ-đặc-già-la nào khởi lên? Là Thánh giả chứ không phải là dị sinh, chỉ có Vô học chứ không phải là Hữu học. Trong Vô học chỉ có Bất thời giải thoát chứ không phải là Thời giải thoát. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì cần phải đạt được Định tự tại, và trong sự nối tiếp nhau không bị phiền não níu giữ, thì mới có thể khởi lên.

Hỏi: Đức Phật-Độc giác-Thanh văn đến cứu cánh, cũng trú trong hạnh Vô tranh hay không? Giả sử như vậy thì có gì sai? Nếu các bậc ấy cũng trú trong hạnh Vô tranh, thì hạnh Vô tranh có thể ngăn chặn phiền não trong sự nối tiếp nhau của người khác, vì sao vẫn còn có trăm ngàn chúng sinh duyên vào các bậc ấy mà khởi lên phiền não? Nếu các bậc ấy không trú trong hạnh Vô tranh, thì trong kinh nói nên hiểu thế nào? Như nói: “Tôn giả Thiện Hiện là bậc nhất trú trong hạnh Vô tranh.” Vị ấy căn tánh yếu kém mà hãy còn trú trong hạnh Vô tranh, Đức PhậtĐộc giác-Thanh văn đến cứu cánh là căn tánh thù thắng, mà các bậc ấy vì sao không có thể trú trong hạnh Vô tranh?

Đáp: Nên nói là Đức Phật-Độc giác-Thanh văn đến cứu cánh, cũng trú trong hạnh Vô tranh.

Hỏi: Nếu như vậy thì vì sao vẫn còn có trăm ngàn chúng sinh duyên vào các bậc ấy mà khởi lên phiền não?

Đáp: Đức Phật và Thanh văn đến cứu cánh, đều là thuyết pháp giáo hóa người khác, đều đạt được Nguyện trí, quán sát hữu tình thì bây giờ mình có thể làm cho họ không khởi lên phiền não đối với mình mà gieo trồng căn thiện hay không? Nếu biết là có thể thì đến giáo hóa họ. Nếu biết là họ không thể nào không khởi lên phiền não, nhưng có thể khiến cho họ gieo trồng căn thiện, thì liền nghĩ rằng thà họ khởi lên phiền não, cũng cần phải làm cho họ gieo trồng căn thiện. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì nếu họ có thể khởi lên căn thiện thù thắng chỉ bằng mảy lông, thì có thể hủy diệt các ác hạnh-phiền não như núi cao. Nếu biết cả hai đều không có thể thì phương tiện mà tránh đi, hơn hẳn gấp trăm ngàn lần so với Thiện Hiện.

Có người nói: Đức Phật-Độc giác-Thanh văn đến cứu cánh, không trú trong hạnh Vô tranh.

Hỏi: Vì sao Thiện Hiện có thể trú trong hạnh Vô tranh, Đức Phật và Thanh văn đến cứu cánh là căn tánh thù thắng, mà không có thể trú trong hạnh Vô tranh?

Đáp: Tôn giả Thiện Hiện yêu thích tôn trọng luôn luôn tu tập ở trong hạnh Vô tranh, Đức Phật… thì không như vậy, bởi vì không phải là đối với hạnh Vô tranh khởi lên ý tưởng vô cùng tôn trọng, nhưng không phải là không có thể trú trong hạnh ấy.

Nói như vậy thì Đức Phật… cũng trú trong hạnh Vô tranh, nhưng không trú nhiều bởi vì giáo hóa hữu tình. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì căn tánh của các hữu tình được giáo hóa không như nhau, có loại nên khuyên nhủ, có loại nên quở trách, có loại nên khen ngợi, sau đó tiến vào giáo pháp, tuy họ ở các phần vị quở trách… có lúc khởi lên thamsân-mạn, nhưng chắc chắn nhờ vào đây mà gieo trồng các căn thiện. Vì thế cho nên Như Lai và Xá-lợi-tử…, tuy có thể luôn luôn trú trong hạnh Vô tranh, mà bởi vì giáo hóa hữu tình, cho nên không trú nhiều trong hạnh ấy.

Hỏi: Vô tranh là gia hạnh đạt được, hay là lìa nhiễm đạt được?

Đáp: Có lúc là gia hạnh đạt được, có lúc là lìa nhiễm đạt được.

Trong này, có người nói: Đức Phật lìa nhiễm đạt được, bởi vì đạt được lúc Tận trí hiện khởi; Thanh văn-Độc giác do gia hạnh mà đạt được, bởi vì gia hạnh cho nên hiện rõ ở trước mắt.

Có người nói: Đức Phật và Độc giác đều lìa nhiễm đạt được, bởi vì đạt được lúc Tận trí hiện khởi; Thanh văn do gia hạnh mà đạt được, bởi vì gia hạnh cho nên hiện rõ ở trước mắt.

Có người nói: Đức Phật-Độc giác và Thanh văn đến cứu cánh đều lìa nhiễm đạt được, bởi vì đạt được lúc Tận trí hiện khởi; Thanh văn khác do gia hạnh mà đạt được, bởi vì gia hạnh mà hiện rõ ở trước mắt.

Nói như vậy là nếu quyết định có thể đạt được thì đó là lìa nhiễm đạt được, bởi vì đạt được lúc Tận trí hiện khởi, sau khi thực hiện gia hạnh mới hiện rõ ở trước mắt. Đức Phật không do gia hạnh, Độc giác do gia hạnh bậc Hạ, Thanh văn do gia hạnh bậc Trung hoặc là bậc Thượng.

Nhưng có lúc Vô tranh do gia hạnh của Định Biên tế mà đạt được, bởi vì gia hạnh mà hiện rõ ở trước mắt.

Hỏi: Vô tranh này gia hạnh như thế nào?

Đáp: Dùng tất cả các địa và Định Biên tế làm gia hạnh, nói rộng ra như trong phần Nguyện trí.

Như trong kinh nói: “Tỳ kheo Thiện Hiện tu hạnh Vô tranh, chứng pháp tùy theo pháp.”

Hỏi: Vô tranh không có thể đoạn các phiền não, vì sao Đức Thế Tôn đưa ra cách nói như vậy?

Đáp: Tôn giả ấy từ xưa đến nay yêu thích tu tập đối với hạnh Vô tranh, nhờ vào hạnh này lần lượt chuyển đổi có thể khởi lên Thánh đạo, đạo các phiền não, thành bậc A-la-hán, từ đây có thể khởi lên Vô tranh hiện rõ trước mắt. Dựa vào ý sâu kín này cho nên đưa ra cách nói này, không phải là nói Vô tranh có thể đoạn phiền não. Sự việc ấy như thế nào? Từng nghe Tôn giả xưa kia nhờ vào hai duyên phát khởi Chánh nguyện ở trong Vô tranh:

  1. Nhờ vào thấy.
  2. Nhờ vào nghe.

Nhờ vào thấy, đó là ở xưa kia thấy đệ tử của Đức Phật do trú trong

Vô tranh, cứ mỗi khi đến thành ấp-đường đi-phố chợ, mong sao bảo vệ hữu tình khiến cho không khởi lên phiền não.

Nhờ vào nghe, đó là ở xưa kia nghe đệ tử của Đức Phật do trú trong Vô tranh, còn lại nói như trước. Đã thấy-nghe rồi khởi lên sự nhớ nghĩ đúng đắn, tùy theo mà tu tập bố thí-trì giới-đa văn-tinh cần-Phạm hạnh, tất cả đều dùng để hồi hướng cho Vô tranh: Nguyện cho con ở đời vị lai làm đệ tử của Đức Phật luôn luôn trú trong Vô tranh, mong sao bảo vệ hữu tình như điều đã thấy-nghe về các đệ tử của Đức Phật. Nhờ vào nguyện lực ấy cảm được Chúng đồng phần, ở trong giáo pháp của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, làm đệ tử bậc nhất trú vào hạnh Vô tranh, bởi vì Vô tranh cho nên rất nhanh chóng chứng được quả A-la-hán. Bởi vì Vô tranh chắc chắn dựa vào thân Vô học. Dựa vào ý sâu kín này, cho nên trong kinh nói rằng: “Tu hạnh Vô tranh, chứng pháp tùy theo pháp.”

Hỏi: Vô tranh thực hiện công hạnh gì?

Đáp: Thực hiện công hạnh vắng lặng, bởi vì làm vắng lặng các phiền não của người khác.

Như nói: “Trong đệ tử của Ta thì Nhân Nho Đồng là thông tuệ (hiệp tuệ) bậc nhất…”

Hỏi: Vì sao soạn ra phần luận này?

Đáp: Bởi vì muốn phân biệt nghĩa lý trong kinh. Như trong kinh nói: “Đức Thế Tôn ghi nhận và nói năm trăm đệ tử, tất cả tùy theo năng lực vốn có bậc nhất song song.” Nay Luận sư của bản luận này, bởi vì muốn hiển bày về sai biệt ở trong bậc nhất song song tương tự, mà soạn ra phần luận này.

Hỏi: Vì sao Đức Thế Tôn ghi nhận và nói các đệ tử là song song bậc nhất?

Đáp: Tôn giả Thế Hữu nói rằng: “Đức Thế Tôn muốn hiển bày trong cách nói pháp khéo léo thì Thầy và đệ tử tài đức hài hòa không có tranh chấp, không giấu kín công đức chân thật của nhau; không phải là như ngoại đạo vì danh lợi cho nên lòng dạ chứa đầy ganh ghét, đệ tử và Thầy nói xấu lẫn nhau.

Lại nữa, Đức Thế Tôn muốn hiển bày trong cách nói pháp khéo léo thì đệ tử còn có công đức chân thật đáng khen ngợi-đáng ghi nhận, huống là đối với Thầy hay sao? Trong cách nói pháp xấu ác thì Thầy hãy còn không có công đức chân thật có thể ghi nhận, huống gì là đệ tử hay sao?

Lại nữa, muốn hiển bày trong cách nói pháp khéo léo thì keo kiệt

bẩn thỉu vĩnh viễn đoạn bỏ, Thầy và đệ tử ca ngợi nêu cao công đức chân thật của nhau; không phải là như ngoại đạo bởi vì có keo kiệt bẩn thỉu, cho nên Thầy đối với đệ tử, đệ tử đối với Thầy, hãy còn không muốn nghe người khác ca ngợi, huống gì là tự mình nói ra hay sao?

Lại nữa, Đức Thế Tôn hiển bày về những sự việc mà mình cần làm đều đã hoàn thành, bởi vì buông bỏ gánh nặng dạy dỗ truyền trao cho nên tự nhiên mà yên ổn.

Lại nữa, muốn hiển bày về Tỳ kheo bởi vì tu gia hạnh đúng đắn, cho nên có nơi trở về chứ không phải là xa xăm mù mịt.

Lại nữa, Đức Thế Tôn muốn làm cho ở trong công đức đã khen ngợi, tùy theo sự yêu thích ấy mà an trú nhiều, bởi vì sinh tâm cung kính tôn trọng, cho nên ý mong muốn được đầy đủ.

Lại nữa, Đức Phật vì khuyến khích hàng Tỳ kheo mới học, khiến cho sinh lòng mong mỏi ưa thích mà chịu khó tu tập.”

Đại đức nói rằng: “Do hai nhân duyên cho nên Đức Thế Tôn ghi nhận và nói đến công đức của đệ tử:

  1. Hiển bày niềm vui trú trong pháp hiện tại của mình.
  2. Thương xót hữu tình ở đời sau.

Lại nữa, Đức Thế Tôn tự mình hiển bày ở trong chín mươi sáu chúng của các ngoại đạo, thì chúng của mình là hơn hẳn.

Lại nữa, Đức Thế Tôn muốn hiển bày Đức Phật xuất hiện ở thế gian có lợi ích to lớn, đó là lúc Đức Phật xuất thế, mới có những cặp Bồtát bậc nhất như vậy xuất hiện, chứ không phải là lúc không có Phật.

Lại nữa, Đức Thế Tôn muốn khiến cho ở trong các phần công đức sai biệt, bởi vì ưa thích từng loại riêng biệt, hoan hỷ chịu khó tu tập rời bỏ những sự lười nhác, cho nên mau chóng chứng được những công đức.

Lại nữa, Đức Thế Tôn muốn dùng sự đạt được của đệ tử, để chứng minh cho những điều đã nói là chân thật.

Lại nữa, muốn ngăn chặn sự phỉ báng là trong cách nói pháp khéo léo, không có pháp hiện chứng của bậc Thượng nhân.

Lại nữa, Đức Thế Tôn muốn ngăn chặn những người nhìn thấy hình dung tiều tụy của các Tỳ kheo mà sinh lòng khinh mạn, hiển bày những vị này đều có công đức thù thắng.”

Các Luận sư A-tỳ-đạt-ma nói: “Bởi vì thuận theo pháp của chư Phật. Nghĩa là pháp của hằng hà sa số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác xuất hiện giữa thế gian, đều ghi nhận trong chúng đệ tử vốn có nhiều cặp công đức bậc nhất, Đức Phật hiện tại cũng như vậy.

Lại nữa, muốn khiến cho người thế gian yêu thích các công đức riêng biệt, nghe mà sinh tâm hoan hỷ, bởi vì đối với Chánh pháp của Đức Phật, khởi tâm tôn trọng gieo trồng các căn thiện, cho nên đạt được lợi ích to lớn.

Lại nữa, bởi vì muốn trang nghiêm cho đồ chúng của chư Phật vị lai. Nghĩa là Đức Phật ghi nhận cho các đệ tử rồi, vô lượng hữu tình hoặc là thấy-hoặc là nghe, đều sinh tâm hoan hỷ phát khởi Chánh nguyện, thuận theo pháp bố thí-trì giới-đa văn-chánh cần-Phạm hạnh đã tu tập, đều đem hồi hướng cho công đức bậc nhất: Nguyện cho con ở đời vị lai, được tham dự vào số các bậc Chánh sĩ như vậy trong giáo pháp của Đức Phật, để làm đồ chúng trang nghiêm của Đức Phật ấy.

Lại nữa, bởi vì muốn làm cho đệ tử đã được ghi nhận, tự mừng cho nguyện của mình được đầy đủ. Nghĩa là năm trăm Tỳ kheo như Nhân Nho Đồng…, đã từng ở nơi năm trăm Đức Phật quá khứ, hoặc là thấy-hoặc là nghe Đức Phật ấy ghi nhận về công đức của đệ tử, hoan hỷ phát nguyện: Tùy theo pháp bố thí-trì giới-đa văn-chánh cần-Phạm hạnh mà con vốn có, nguyện được tham dự vào số Đại đệ tử như vậy, ở trong Chánh pháp của Đức Phật đời vị lai. Nay nguyện đã được đầy đủ, lại nghe Đức Phật ghi nhận, cho nên hoan hỷ vô cùng, tự mừng cho mình hết sức may mắn.”

Có người nói như vậy: Chúng Đại đệ tử của mỗi một Như Lai, đều ở nơi năm trăm Đức Phật quá khứ, phát Đại thệ nguyện trang nghiêm mới được thành tựu.

Bởi vì các loại nhân duyên như vậy, cho nên Đức Phật ghi nhận cho đệ tử song song bậc nhất.

Như nói: “Trong đệ tử của Ta thì Nhân Nho Đồng là thông tuệ (hiệp tuệ) bậc nhất, như Bà-tư-ca… là nhanh nhẹn (mẫn tiệp) bậc nhất.”

Hỏi: Hai vị này có gì sai biệt?

Đáp: Tôn giả Nhân Nho Đồng thì tâm thẳng thắn-tâm không cong-tâm chất phác tăng thượng, như Tôn giả Bà-tư-ca… thì tâm thấm nhuần-tâm mềm mỏng-tâm hòa thuận tăng thượng, vì vậy đều gọi là bậc nhất.

Trong này, thông tuệ tức là nhanh nhẹn, nhanh nhẹn tức là thông tuệ, mà Đức Phật đều gọi là bậc nhất, cho nên cần phải hỏi về tướng khác nhau của điều ấy.

Tôn giả Nhân Nho Đồng thì tâm thẳng thắn-tâm không cong-tâm chất phác tăng thượng: Tâm thẳng thắn-tâm không cong-tâm chất phác, thì tên gọi khác nhau mà nghĩa chỉ một, như thứ tự ấy lấy loại sau để giải thích loại trước. Hoặc tâm thẳng thắn là câu chung, tâm không cong là câu riêng hiển bày về tâm không có nịnh hót, tâm chất phác là câu riêng hiển bày về tâm không có dối gạt. Như con ngựa thông minh khéo nhận biết ý của người, tuy có lúc giật mình va chạm mà không tổn hại đến người; Tôn giả Nhân Nho Đồng cũng lại như vậy, bởi vì thông tuệ cho nên khéo nhận biết ý của Đức Phật, vào lúc vặn hỏi cứ thuận theo thẳng thắn trả lời.

Sự việc ấy như thế nào? Như trong kinh nói: “Lúc vị ấy còn tại gia, tiền của châu báu dồi dào, thân thuộc cao quý sang trọng, luôn luôn thờ thần Mặt trời. Vị ấy vào tuổi trưởng thành, lúc sắp lấy vợ, mời nhiều chúng Bà-la-môn ngoại đạo, ở trong nhà mình thiết lễ cúng tế rầm rộ. Đức Phật đối với sự hóa độ không bao giờ để lỡ thời cơ, sáng sớm hôm ấy bởi vì hóa độ vị ấy cho nên khoác y-ôm bát bảo với A-nan-đà: Ông hãy theo Ta đi vào thành khất thực! Nói rồi liền đi vào thành Thất-laphiệt, đến cổng nhà của Nhân Nho Đồng mà đứng lại. Phạm Chí ngoại đạo từ xa trông thấy mắng rằng: Hôm nay ở nhà này thiết hội tốt lành (cát tường), vật này không tốt lành vì sao lại đến đây?

Đức Phật nghe rồi liền bảo với A-nan-đà: Ông đến nói với các hàng ngoại kia, bậc Đại Sư là điều tốt lành nhất trong ba cõi, các ông không muốn thấy sự việc tốt lành thì lẽ nào thành tựu, Nhân Nho Đồng này nhất định vào hôm nay rời bỏ các ông mà xuất gia theo Ta, tất cả phép thuật của các ông có thể làm cho trở ngại hay không?

Lúc ấy A-nan-đà vâng theo lời dạy của Đức Phật, như Sư tử chúa không hề sợ hãi khó khăn, đi đến giữa chúng ngoại đạo như bầy hươu, nói cho biết rằng: Như Lai khéo thông hiểu về nhân quả, mà nói lời chân thành chính xác với các ông rằng: Bậc Đại Sư là điều tốt lành nhất trong ba cõi, các ông không muốn thấy sự việc tốt lành thì lẽ nào thành tựu, Nhân Nho Đồng này nhất định vào hôm nay rời bỏ các ông mà xuất gia theo Ta, tất cả phép thuật của các ông có thể làm cho trở ngại hay không?

Ngoại đạo nghe rồi nhìn nhau cười mà nói rằng: Sa-môn Kiềuđáp-ma tùy theo ý mình nói lời lừa dối, đâu có ai sắp đến lúc cầu thỉnh chúng ta cúng tế, bà con nội ngoại tụ tập chúc mừng, mà đi theo ông ta xuất gia hay sao, kỳ lạ thay Sa môn nói dối như vậy?

Lúc ấy có ngoại đạo tên là Ngũ Đảnh, đã từng thấy Đức Thế Tôn ghi nhận sự việc không sai lạc, liền nói với chúng ngoại đạo rằng: Nhân Nho Đồng này nhất định sẽ xuất gia, không sinh khởi ý nghĩ nào khác.

Ngoại đạo đều nói: Giả sử có điều này thì chúng tôi nhất định có thể làm cho trở ngại. Liền cùng nhau ngay lập tức vỗ tay, đi quanh nhà của Nhân Nho Đồng bảy lớp mà đứng lại.

Chốc lát mặt trời mọc lên, Nhân Nho Đồng này mặc áo mới sạch sẽ, đến trên lầu cao thắp hương phát nguyện, quỳ lạy mặt trời.

Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn biết thời cơ hóa độ đã đến, liền tự hóa làm hình tướng Bà-la-môn, khoác tấm da hươu đen, dây vàng đeo trên thân thể, tay cầm gậy vàng, từ phía mặt trời đi đến trước mặt Nhân Nho Đồng, trải chỗ ngồi mà ngồi, Nhân Nho Đồng cúi đầu cung kính chân thành lễ lạy.

Ngoại đạo vui mừng nói: Nhân Nho Đồng là người phước thiện, cảm đến Đại Phạm Thiên đích thân đến dự lễ tiệc, sự việc nay đã thành tựu, vui sướng thay lời Sa-môn đã nói không có thật!

Lúc ấy Đức Phật liền dùng hình tướng đã hóa hiện nói với Nhân Nho Đồng rằng: Nay làm điều gì mà ồn ào náo loạn như vậy? Nhân Nho Đồng xấu hổ ngượng ngùng cúi đầu trả lời rằng: Hôm nay thuận theo pháp phàm tục, chính là sắp lấy vợ. Đức Phật hỏi đã tiêu tốn bao nhiêu?

Trả lời rằng: Con tiêu tốn ba trăm ngàn tiền vàng. Lại hỏi đã dùng vào việc gì? Trả lời rằng: Một trăm ngàn đưa cho vợ để mua đồ vật trang điểm, một trăm ngàn lo liệu các thức ăn uống cho mọi người, một trăm ngàn dùng để cúng dường các vị Bà-la-môn.

Đức Phật nói: Ông lo liệu đồ ăn thức uống-cúng dường Bà-la-môn mà sử dụng hai trăm ngàn, sẽ đạt được quả yêu thích thì sự việc có lẽ thích hợp như vậy, còn lại một trăm ngàn là dùng để mua vợ chăng? Bởi vì tâm người ấy thẳng thắn cho nên liền trả lời rằng: Dạ, dùng để mua vợ. Đức Phật nói: Vợ ông giá trị bấy nhiêu chăng? Vả lại, tóc của vợ ông là giá trị bao nhiêu? Nhân Nho Đồng trả lời rằng: Vật này không có nhiều giá trị, nếu các ca nhi-vũ nữ-dâm nữ đặt mua thì giá trị khoảng một Ca-yết-ni, hoặc là chỉ có giá trị một nửa. Lại hỏi móng tay-chân của vợ ông là giá trị bao nhiêu? Nhân Nho Đồng trả lời rằng: Vật này không hề có giá trị. Đức Phật lại lần lượt đưa ra ba mươi sáu vật trong thân người ấy, hỏi theo từng loại một; Nhân Nho Đồng cũng theo từng loại một mà trả lời, đều nói vật này không hề có giá trị.

Nhưng Nhân Nho Đồng đã từng ở trong giáo pháp của Phật Cadiếp-ba thời quá khứ, trải qua mười ngàn năm tu quán phương tiện về thân nam, bởi vì Đức Phật hỏi riêng biệt về vật bất tịnh, cho nên phẩm thiện đã luyện tập ở quá khứ hiện rõ trước mắt, liền điều phục được Dục tham, lìa nhiễm của cõi Dục.

Đức Thế Tôn ngay sau đó trở lại hình tướng của mình, nói về bốn Chân đế cho Nhân Nho Đồng nghe, Nhân Nho Đồng nghe liền chứng được quả Bất hoàn. Lúc ấy Đức Phật liền nắm tay Nhân Nho Đồng bay vút lên giữa hư không, nói bài tụng rằng:

“Tuy rất trang nghiêm mà thực hành theo pháp,
Lặng yên hít thở cốt phải tu Phạm hạnh,
Tất cả ràng buộc của thế gian đều bỏ,
Chính là Phạm Chí, Sa-môn Tăng thanh tịnh.”

Vì vậy cho nên biết tâm của vị ấy chất phác thẳng thắn. Nếu không như vậy thì lúc người biến hóa hỏi, vị ấy sẽ trả lời rằng: Ông là Phạm Chí, đâu cần phải biết về việc tôi lấy vợ, là phép tắc lấy vợ như vậy, tại sao gọi là mua vợ? Bởi vì chất phác thẳng thắn, cho nên thuận theo câu hỏi mà trả lời, phẩm thiện thành thục đạt được quả. Vì thế cho nên Đức Thế Tôn khen ngợi Nhân Nho Đồng là thông tuệ bậc nhất.

********

 

Như Tôn giả Bà-tư-ca… thì tâm thấm nhuần-tâm mềm mỏng-tâm hòa thuận tăng thượng: Nói là Đẳng (…) tức là thâu nhiếp cả Tôn giả Phả-lạc-ca, Tôn giả Chí-lũ-ca.

Trong này, tâm thấm nhuần-tâm mềm mỏng-tâm hòa thuận, thì tên gọi khác nhau mà nghĩa chỉ một, như thứ tự ấy lấy loại sau để giải thích loại trước. Hoặc tâm thấm nhuần là câu chung, tâm mềm mỏng là câu riêng hiển bày về tâm không có kiêu ngạo, tâm hòa thuận là câu riêng hiển bày về tâm không có khinh mạn.

Tại sao biết được Bà-tư-ca… có những sự việc như tâm thấm nhuần…? Từng nghe ba người ấy nghe Đức Phật xuất thế, hỏi thăm biết là Đức Phật ở tại thành Thất-la-phiệt, ba người theo nhau từ thành Vương Xá đi đến thành Thất-la-phiệt. Đức Thế Tôn biết họ trải qua nhiều lần lặp đi lặp lại thì căn thiện mới chín muồi, liền chọn lấy đường khác từ thành Thất-la-phiệt đi đến thành Vương Xá. Bà-tư-ca… đi đến thành Thất-la-phiệt, nghe tin Đức Phật đã đi trở lại thành Vương Xá, liền tiếp tục dẫn nhau quay lại đi đến thành Vương Xá; đến rồi nghe tin Đức Phật đã đi đến nước Chiêm Ba, lại tiếp tục dẫn nhau đi đến nước Chiêm Ba; đến rồi tìm hỏi nghe tin Đức Phật đã đi đến nước Bà-la-nitư, ba người lại theo nhau đi đến Bà-la-ni-tư; đến rồi được tin Đức Phật đã đi đến thành Kiếp-tỷ-la-phiệt-suất-đổ, lại cùng nhau đi đến thành Kiếp-tỷ-la-phiệt-suất-đổ; đến rồi được tin Đức Phật đã đi đến thành Phệ-xá-ly. Như vậy, Đức Thế Tôn ở sáu thành lớn đi vòng quanh sáu lần, Bà-tư-ca… cũng luôn luôn tìm theo Đức Phật qua lại sáu lần. Đức Phật biết lúc căn của những người ấy chín muồi, đến tại thành Thấtla-phiệt sẽ cùng họ gặp nhau, Đức Phật mới đi vào thành, họ từ trong thành đi ra, bỗng nhiên từ xa trông thấy Đức Phật, hoan hỷ không sao kể xiết, chân chưa chạm đất đã đạt được quả Dự lưu, sau đó không lâu thành bậc A-la-hán.

Nhưng ba người ấy, nếu không phải là tâm thấm nhuần-mềm mỏng-hòa thuận, thì sẽ đi đến ở một thành để chờ đợi Đức Phật, lẽ nào có thể tìm theo Đức Phật đi khắp sáu thành lớn vòng quanh sáu lần hay sao? Tâm ban đầu không có một niệm vất vả mệt mỏi, lúc mới trông thấy Đức Phật liền chứng được quả Thánh, cho nên Đức Phật khen ngợi rằng: Bà-tư-ca… là nhanh nhẹn bậc nhất.

Như nói: “Trong đệ tử của Ta thì Tiểu Lộ đối với Tâm quay về thiện, Đại Lộ đối với Tưởng quay về thiện.” Hỏi: Hai vị này có gì sai biệt?

Đáp: Tôn giả Tiểu Lộ phần nhiều trú vào Tâm thuận theo Tâm quán về Niệm trú, Tôn giả Đại Lộ phần nhiều trú vào Pháp thuận theo Pháp quán về Niệm trú.

Hỏi: Vì sao Tôn giả Tiểu Lộ phần nhiều trú vào Tâm niệm trú, Tôn giả Đại Lộ phần nhiều trú vào Pháp niệm trú?

Đáp: Bởi vì ý thích của hai Tôn giả ấy khác nhau.

Lại nữa, Tôn giả Tiểu Lộ là người thuộc về hành Ái, vị ấy do lực của tâm, từ vô thỉ cho đến ngày nay ở trong sinh tử nhận chịu nhiều khổ não, nay thành bậc Vô học thường trách mắng tâm, vì vậy phần nhiều trú vào Tâm niệm trú mà quán xét; Tôn giả Đại Lộ là người thuộc về hành Kiến, vị ấy do lực của tưởng, từ vô thỉ cho đến ngày nay ở trong sinh tử nhận chịu nhiều khổ não, nay thành bậc Vô học thường trách mắng tưởng, vì vậy phần nhiều trú vào Pháp niệm trú mà quán xét.

Hỏi: Hai Tôn giả này vì sao đặt theo tên gọi này?

Đáp: Từng nghe trong thành Thất-la-phiệt có người phụ nữ dòng Bà-la-môn, nhiều lần sinh con trai, sinh rồi liền chết. Người phụ nữ ấy không bao lâu lại sinh một bé trai, lập tức khiến người đem đến bỏ ở con đường lớn, trải qua thời gian không chết, cho nên đặt theo tên gọi này. Người phụ nữ ấy về sau lại sinh một người con, vẫn lập tức khiến người đem bỏ ở con đường nhỏ, cũng trải qua thời gian không chết, vì vậy đặt theo tên gọi này. Tôn giả Đại Lộ là người lợi căn thuộc về hành Kiến, đến tuổi trưởng thành xuất gia theo Đức Phật, tinh tiến tu hành thành vị A-la-hán. Tôn giả Tiểu Lộ là người độn căn thuộc về hành Ái, thích sống ở nhà quấn quýt bảo vệ thân thuộc, làm cho tài sản thêm nhiều, hướng đến địa vị cao quý giàu sang, bà con họ hàng hưng thịnh, hưởng thụ nhiều dục lạc, về sau đều suy giảm. Như bài tụng nói:

“Tài sản tích lũy sau phải hết,
Địa vị cao sang sau phải xuống,
Thân quyến hội tụ sau phải lìa,
Thọ mạng tồn tại sau phải chết.”

Vì vậy, Tiểu Lộ về sau không lâu thì cha mẹ qua đời, tiền của châu báu thất lạc mất mát, địa vị cao sang lui sụt rời bỏ, thân quyến chia lìa, hình dáng tiều tụy. Anh trai là Đại Lộ nhìn thấy mà thương xót cho em, độ cho xuất gia, thọ Cụ túc giới, dạy cho bài tụng Câu-ca-thanh khiến thường đọc tụng cho thuộc lòng:

“Thân-ngữ-ý đừng có gây ra,
Tất cả điều ác của thế gian,
Lìa ham muốn-nghĩ biết đúng đắn,
Không nhận chịu khổ đau vô nghĩa.”

Vị ấy vô cùng tối tăm chậm chạp, tiếp nhận bài tụng này rồi chịu khó chịu khổ luyện tập đọc tụng suốt trong bốn tháng, người chăn trâudê ở ven đường nghe đọc tụng đều thông suốt lưu loát, mà vị ấy vẫn chưa đọc thuộc được. Qua bốn tháng mưa, Tỳ kheo khắp nơi trở về thăm hỏi Đức Thế Tôn, cho nên đều tập trung lại với nhau. Mỗi ngày vào sáng sớm, Tỳ kheo mới học đều đi đến nơi Ô-ba-đà-da (thân giáo sư) A-già-lợi-da để tiếp nhận văn từ, thưa hỏi nghĩa lý đã quên mất. Tiểu Lộ lúc bấy giờ cũng bắt chước người khác mà đi, sắp ra khỏi cửa phòng, người anh liền hỏi: Em muốn đi đâu? Trả lời rằng: Em muốn đi đến nơi Ô-ba-đà-da A-già-lợi-da để tiếp nhận văn từ, thưa hỏi nghĩa lý đã quên mất. Người anh nói rằng: Ta chính là Ô-ba-đà-da của ông, mà ông lại còn đi đến nơi nào? Nhưng Tiểu Lộ ấy, là người cần phải trách mắng đuổi đi mới tiến vào đạo. Đại Lộ ngay lập tức đưa tay nắm gáy người em kéo ra ngoài phòng mắng rằng: Người ngu dốt, Ta dạy cho ông một bài tụng trong bốn tháng trời, người chăn trâu-dê ven đường đọc tụng đều thông suốt lưu loát, ông vẫn chưa đọc thuộc được, mà bây giờ còn nói là muốn đi đến nơi khác tiếp nhận văn từ, thưa hỏi nghĩa lý đã quên mất hay sao? Tiểu Lộ đã bị anh trách mắng đuổi đi rồi, vào trong Thệđa-lâm (tinh xá Kỳ Hoàn) mà đứng khóc sụt sùi. Lúc ấy Đức Phật từ bên ngoài đi vào Thệ-đa-lâm, trông thấy bèn hỏi nguyên do sự việc: Đáng thương cho Tiểu Lộ, vì sao mà khóc sụt sùi? Vị ấy đem đầy đủ sự việc trên thưa với Đức Thế Tôn, Đức Phật liền nói rằng: Con có thể đi theo Ta, lý nào mà quên được không? Vị ấy thưa rằng: Con có thể. Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn liền dùng thần lực xoay chuyển chướng ngại vốn có trong bài tụng đã học ấy, trở lại giảng giải cho nghe, lập tức tụng được, hơn hẳn công lao đã sử dụng trong bốn tháng trước. Lại dùng bài tụng trừ bụi bẩn(trừ trần cấu) để phân biệt giảng giải mà nói với Tiểu Lộ rằng: Hôm nay Tỳ kheo từ bên ngoài đến thì con đều có thể lau sạch bụi bẩn vốn có trên giày dép cho họ! Tiểu Lộ vâng dạ cung kính, thực hành như lời dạy. Đến lúc chiều muộn có một Tỳ kheo, giày dép dính đầy bụi bẩn, Tiểu Lộ lau chùi một chiếc thì rất sạch, một chiếc thì chùi mãi mà không có thể sạch được, liền dấy lên nghĩ rằng: Bụi bẩn là vật bên ngoài tạm thời dính vào hãy còn không có thể chùi sạch, huống gì bụi bẩn như tham dục-sân-si…ở bên trong suốt đời dính vào tâm thì do đâu mà có thể làm sạch? Lúc dấy lên ý nghĩ này, thì lúc ấy quán Bất tịnh và Trì tức niệm liền hiện rõ ở trước mắt, theo thứ tự đạt được quả A-la-hán.

Hỏi: Tiểu Lộ vì sao tối tăm chậm chạp như vậy?

Đáp: Tôn giả Tiểu Lộ xưa kia ở trong giáo pháp của Đức Phật Ca-diếp-ba, thọ trì đầy đủ ba Tạng của Đức Phật ấy, bởi vì keo kiệt bẩn thỉu về giáo pháp che lấp tâm tư, không hề trao truyền văn từ-giải thích ý nghĩa và lý lẽ cho người khác mà bỏ quên mất, do nghiệp ấy cho nên nay mang lấy quả báo vô cùng tối tăm chậm chạp như vậy.

Có người nói: Tôn giả ấy đã từng ở tại thành Bà-la-ni-tư làm người buôn heo, buộc miệng của năm trăm con heo chuyển lên trên thuyền chở sang đến bờ bên kia, đến lúc xuống thuyền bởi vì hơi thở không thông cho nên cả bầy heo đều đã chết, do nghiệp lực ấy mà tối tăm chậm chạp như vậy.

Có người nói: Tôn giả ấy xưa kia trong đời khác đã từng bít chặt cửa hang của loài thú Cù-đà, khiến cho không thoát ra được mà chết ở trong hang, do nghiệp ấy mà tối tăm chậm chạp như vậy.

Như Đức Thế Tôn nói: “Tỳ kheo nên biết! Ta không thấy một pháp nào xoay chuyển nhanh chóng giống như tâm. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì tâm xoay chuyển nhanh chóng khó mà đưa ra ví dụ. Vì thế cho nên các Thầy cần phải học để khéo léo nhận biết về tâm, khéo léo nhận biết về sự xoay chuyển của tâm.”

Hỏi: Đã nói đến tâm xoay chuyển nhanh chóng, đó là bởi vì thời gian hay là bởi vì sở duyên? Giả sử như vậy thì có gì sai? Nếu bởi vì thời gian thì tất cả các pháp hữu vi đều xoay chuyển nhanh chóng đối với thời gian, nếu bởi vì sở duyên thì tất cả tâm-tâm sở pháp đều xoay chuyển nhanh chóng đối với sở duyên, vì sao chỉ nói đến tâm?

Đáp: Cũng bởi vì thời gian-cũng bởi vì sở duyên cho nên nói là tâm xoay chuyển nhanh chóng. Nhưng dựa vào sự nối tiếp nhau chứ không dựa vào sát-na. Nếu dựa vào sát-na mà nói về tâm xoay chuyển nhanh chóng, thì lẽ ra đối với thời gian có phần ít xoay chuyển nhanh chóng, phần ít không xoay chuyển nhanh chóng; cũng không có xoay chuyển nhanh chóng đối với sở duyên, bởi vì nói: Nếu pháp là sở duyên của nó thì pháp này không có lúc nào không phải là sở duyên của nó.

Vì vậy chỉ dựa vào sự nối tiếp nhau mà nói là tâm xoay chuyển nhanh chóng, nghĩa là tâm trong một thân có lúc là thiện, có lúc là bất thiện, có lúc là vô ký, có lúc dựa vào mắt cho đến có lúc chỉ dựa vào ý, có lúc duyên với sắc cho đến có lúc duyên với pháp, trong mỗi một loại lại tiếp tục chuyển đổi.

Hỏi: Các tâm sở pháp cũng có xoay chuyển nhanh chóng như vậy, vì sao chỉ nói đến tâm?

Đáp: Cũng cần phải nói đến tâm sở mà không nói, thì nên biết là Đức Phật có cách nói khác, cũng là tùy duyên mà nói giản lược.

Có người nói: Trong này đưa ra tâm cũng thâu nhiếp tâm sở, bởi vì cùng một tụ.

Có người nói: Trong này nói đến pháp thù thắng nhất, như nói nhà vua đến.

Có người nói: Tâm sở dựa vào tâm, bởi vì tâm cho nên gọi là tâm sở, bởi vì tâm là mặt đất cho nên tâm sở gọi là vốn có của mặt đất, vì thế nói đến tâm thì cũng nói đến tâm sở.

Có người nói: Tha tâm trí chứng thông-đạo vô gián chỉ duyên với tâm, vì thế cho nên chỉ nói đến tâm.

Có người nói: Trong này, thanh của tâm là nói chung cho tất cả tâm và tâm sở, bởi vì nó đều có nghĩa của sự tích tụ.

Có người nói: Tâm là pháp đi trước dẫn đường cho nên chỉ nói đến tâm, như bài tụng nói: “Ý là pháp đi trước dẫn đường…”

Có người nói: Tâm gọi là đi xa, như bài tụng nói: “Tâm đi xa chỉ đi một mình…”

Có người nói: Tâm gọi là vua, như bài tụng nói: “Thức thứ sáu tăng thượng là vua…”

Lại nữa, tâm gọi là nương tựa, như trong kinh nói: “Nơi hiện hành và cảnh giới của năm căn đều khác, ý thọ dụng đầy đủ nơi hiện hành của năm căn và cảnh giới của năm căn, bởi vì năm căn dựa vào ý.”

Lại nữa, tâm gọi chủ thành, như trong kinh nói: “Nói đến chủ thành, tức là có giữ lấy Thức.” Bởi vì nghĩa như vậy, cho nên chỉ nói đến tâm.

Lại có người nói: Tâm có thể phát khởi giới thiện-giới ác, vì thế cho nên chỉ nói đến tâm, như trong kinh nói: “Giới thiện-giới ác đều dựa vào tâm mà khởi lên.”

Có người nói: Tâm cheo leo sinh vào nẽo ác, tâm bằng phẳng sinh vào nẽo thiện, cho nên chỉ nói đến tâm, như trong kinh nói: “Nho đồng, Anh vũ, Đô-đề-da-tử, bởi vì ở bên cạnh Đức Phật khởi lên tâm ác, cho nên lúc thân hoại mạng chung, như khoảng thời gian ném vỏ sò, sẽ rơi vào địa ngục; họ lại đối với Đức Phật khởi lên tâm thiện, cho nên lúc thân hoại mạng chung, như khoảng thời gian ném vỏ sò, sẽ sinh trong cõi trời.”

Có người nói: Tâm là pháp bên trong, ở khắp tất cả mọi nơi, có thể có sở duyên, vì thế cho nên chỉ nói đến tâm. Tâm là pháp bên trong, bởi vì Xứ bên trong thâu nhiếp; ở khắp tất cả mọi nơi, bởi vì dưới từ địa ngục vô gián, trên đến cõi Hữu Đảnh, khắp nơi đều có; có thể có sở duyên, bởi vì có thể duyên với tất cả các pháp.

Có người nói: Tâm luôn luôn nối tiếp nhau, tâm sở thì không như vậy. Lại nữa, tâm không có tăng-giảm, tâm sở thì không như vậy.

Có người nói: Lúc tâm đối với sở y-sở duyên-hành tướng như vậy mà chuyển, thì tâm sở tùy chuyển; như nơi nào cá đực đi lại, thì cá mái đều đi theo. Vì thế cho nên chỉ nói đến tâm.

Có người nói: Nếu tâm không điều phục-không kín đáo-không bảo vệ-không đề phòng-không tu dưỡng, không điều hòa mềm mại thì sẽ hủy hoại, tâm sở cũng như vậy; nếu tâm điều phục-kín đáo-bảo vệđề phòng-tu dưỡng, mà điều hòa mềm mại thì sẽ không hủy hoại, tâm sở cũng như vậy. Vì thế cho nên chỉ nói đến tâm.

Lại nữa, nếu tâm không kềm chế rong ruổi tản mác theo năm cảnh thì tâm sở cũng như vậy; nếu tâm nhờ kềm chế không rong ruổi theo năm cảnh thì tâm sở cũng như vậy; như dùng ống tre lọc nước, phần trên mở ra thì chảy xuống, phần trên đóng lại thì ngừng chảy. Vì thế cho nên chỉ nói đến tâm chứ không phải là tâm sở.

Hỏi: Đức Phật ở nơi khác nói tâm giống như vượn khỉ, vì sao lại nói tâm xoay chuyển nhanh chóng khó mà đưa ra ví dụ?

Đáp: Bởi vì không phải là tùy người-tùy lực-tùy lúc-tùy Tuệ mà có thể đưa ra ví dụ về tâm, cho nên nói là khó đưa ra, chứ không nói là không có ví dụ.

Không phải là tùy người, bởi vì không phải các dị sinh yếu kém về Định hễ nghe liền suy nghĩ mà có thể đưa ra được, chỉ có Đức Phật-Độc giác và đệ tử hàng Thánh, khéo léo nhận biết về tự tướng-cọng tướng của các tâm thì mới có thể đưa ra.

Không phải là tùy lực, bởi vì không phải là không tác ý-không có thực hiện gia hạnh, cần phải do tác ý-gia hạnh thì mới có thể đưa ra.

Không phải là tùy lúc, bởi vì không phải là lúc không có Phật mà có thể đưa ra, phải là lúc mặt trời của Phật xuất hiện ở thế gian thì mới có thể đưa ra.

Không phải là tùy Tuệ, bởi vì không phải Tuệ thô thiển nông cạn mà có thể đưa ra, chỉ riêng Giác Tuệ sâu xa vi tế thì mới có thể đưa ra.

Có người nói: Nếu có ai đối với tâm khéo léo nhận biết khởi lên, khéo léo nhận biết dừng lại, khéo léo nhận biết rời ra, khéo léo nhận biết tăng thêm, khéo léo nhận biết giảm xuống, khéo léo nhận biết phương tiện, khéo léo nhận biết thời gian, khéo léo nhận biết sở hành, khéo léo nhận biết dẫn phát, thì mới có thể đưa ra ví dụ về tâm, cho nên nói là khó đưa ra.

Có người nói: Ai có thể đưa ra ví dụ về tâm? Đó là Đức Phật. Ai biết có thể đưa ra ví dụ về tâm? Đó chính là Đức Phật. Bởi vì hai điều này không đi cùng, cho nên nói là khó đưa ra.

Có người nói: Ai có thể đưa ra ví dụ về tâm? Đó là người khéo léo nhận biết về tâm sinh diệt không ngừng trong từng sát-na. Ai biết có thể đưa ra ví dụ về tâm? Đó là người khéo léo nhận biết về tâm sinh diệt không ngừng trong từng sát-na. Bởi vì hai điều này không đi cùng, cho nên nói là khó đưa ra.

Có người nói: Ví dụ về tâm, hoặc là như nhau, hoặc là tương tự. Như nhau là như nói về tâm giống như tâm; tương tự là như nói về tâm giống như Thọ… Hai loại này cùng thâu nhiếp ở trong tâm nhanh chóng, vì thế cho nên trước đây nói trong này thanh của tâm là thâu nhiếp chung tất cả tâm và tâm sở, ngoài ra lại không có như nhau và tương tự, cho nên nói là khó đưa ra.

Có người nói: Nếu pháp có thế dụng giữ lấy cảnh như tâm thì có thể làm ví dụ về tâm, nhưng không có pháp như vậy, cho nên nói là khó đưa ra. Tuy trong kinh nói tâm như vượn khỉ, nhưng mà vượn khỉ rời bỏ một cành-nắm lấy một cành, trong khoảnh khắc có trăm ngàn tâm xoay chuyển đối với cảnh, cho nên nói là khó đưa ra.

Có người nói: Đức Thế Tôn chỉ nói là khó đưa ra ví dụ, bởi vì không có người chứng thực nhận biết, chứ không nói là hoàn toàn không có ví dụ. Nghĩa là năng lực của Đức Phật có thể hóa làm cây trong một sát-na để ví dụ cho tâm, nhưng không có ai nhận biết, cho nên nói là khó đưa ra.

Hỏi: Tôn giả Xá-lợi-tử có thể không nhận biết chăng?

Đáp: Có người nói: Không nhận biết, bởi vì vô cùng nhanh chóng.

Có người nói: Có thể nhận biết nhưng không tác ý nhận biết, bởi vì không có tác dụng.

Hiếp Tôn giả nói: “Đức Thế Tôn nói tâm như vượn khỉ, tức là lấy tâm để ví dụ cho tâm, bởi vì vượn khỉ leo trèo nhảy nhót đều là việc làm của tâm.”

Hỏi: Đã nói đến khéo léo nhận biết về tâm và khéo léo nhận biết về tâm xoay chuyển, có gì sai biệt?

Đáp: Có người nói: Không có sai biệt, khéo léo nhận biết về tâm tức là khéo léo nhận biết về tâm xoay chuyển.

Có người nói: Cũng có sai biệt, đó là tên gọi chính là sai biệt, gọi là khéo léo nhận biết về tâm và gọi là khéo léo nhận biết về tâm xoay chuyển.

Lại nữa, quán xét tự tánh của tâm gọi là khéo léo nhận biết về tâm, quán xét hành tướng của tâm gọi là khéo léo nhận biết về tâm xoay chuyển.

Lại nữa, quán xét về tánh sai biệt của tâm gọi là khéo léo nhận biết về tâm, quán xét về cảnh hiện hành của tâm gọi là khéo léo nhận biết về tâm xoay chuyển.

Lại nữa, quán xét tự tướng của tâm gọi là khéo léo nhận biết về tâm, quán xét cọng tướng của tâm gọi là khéo léo nhận biết về tâm xoay chuyển.

Có người nói: Quán về Tâm niệm trú gọi là khéo léo nhận biết về tâm, quán về Pháp niệm trú gọi là khéo léo nhận biết về tâm xoay chuyển.

Lại nữa, chỉ quán về Thức thực-Thức uẩn-Ý xứ-bảy Tâm giới thì gọi là khéo léo nhận biết về tâm, quán chung về bốn loại Thực-năm Uẩn-mười hai Xứ-mười tám Giới thì gọi là khéo léo nhận biết về tâm xoay chuyển.

Có người nói: Quán xét về tâm gọi là khéo léo nhận biết về tâm, quán xét về tâm sở gọi là khéo léo nhận biết về tâm xoay chuyển.

Có người nói: Quán xét về Thức gọi là khéo léo nhận biết về tâm, quán xét về Thức trú gọi là khéo léo nhận biết về tâm xoay chuyển.

Hiếp Tôn giả nói: “Quán xét về tâm có tham gọi là khéo léo nhận biết về tâm, quán xét về chuyển tâm có tham là tâm lìa tham gọi là khéo léo nhận biết về tâm xoay chuyển.”

Như có tham-lìa tham, nên biết có sân-lìa sân, có si-lìa si, phân tán-hời hợt, xuống thấp-lên cao, nhỏ bé-to lớn, lăng xăng-không lăng xăng, không vắng lặng-vắng lặng, không ổn định-ổn định, không tu tậptu tập, không giải thoát-giải thoát, nhiễm ô-không nhiễm ô, hữu lậu-vô lậu, ràng buộc-cởi bỏ, hệ thuộc-không hệ thuộc cũng như vậy.

Như nói: “Trong đệ tử của Ta, Xá-lợi-tử có đủ Đại Tuệ biện,

Chấp Đại Tạng đạt được Vô ngại giải.” Hỏi: Hai vị này có gì sai biệt?

Đáp: Tôn giả Xá-lợi-tử phần nhiều trú trong Nghĩa vô ngại giải, Tôn giả Chấp Đại Tạng phần nhiều trú trong bốn Vô ngại giải, vì thế cho nên Đức Thế Tôn đều nói là bậc nhất.

Hỏi: Nếu như vậy thì Tôn giả Chấp Đại Tạng hơn hẳn Tôn giả Xá-lợi-tử chăng?

Đáp: Tôn giả Xá-lợi-tử hơn hẳn, bởi vì có thể tự tại trú trong bốn loại, nhưng rời bỏ mà trú trong một loại.

Hỏi: Vì sao Tôn giả Xá-lợi-tử phần nhiều trú trong Nghĩa, Tôn giả Chấp Đại Tạng phần nhiều trú trong bốn loại?

Đáp: Tôn giả Xá-lợi-tử chán ngán lìa bỏ danh ngôn, yêu quý coi trọng đối với nghĩa lý; Tôn giả Chấp Đại Tạng đối với nghĩa lý và danh ngôn đều sinh lòng yêu quý coi trọng.

Có người nói: Tôn giả Xá-lợi-tử đối với bốn Vô ngại giải đều đạt được tự tại, mà tùy theo ý thích trú trong một loại Nghĩa vô ngại giải, bởi vì Tôn giả ấy ở tất cả mọi lúc chỉ mong cầu đối với nghĩa lý; Tôn giả Chấp Đại Tạng đối với bốn Vô ngại giải đều chưa đạt được tự tại, Đức Thế Tôn ghi nhận vị ấy đạt được Vô ngại giải, vị ấy dấy lên ý nghĩ rằng: Đừng cho là mình đối với bốn Vô ngại giải này, tâm tiến vào-an trú-rời ra có điều gì quên mất, không xứng đáng để ghi nhận chăng? Vì thế cho nên đối với bốn loại xoay vòng trú nhiều trong đó. Như có hai Tỳ kheo cùng đọc tụng Tứ A-kiệp-ma (tứ a hàm), một người thì đều thông suốt lưu loát, một người thì sinh ra bế tắc; người thông suốt lưu loát thì tùy theo ý thích đọc tụng một phần, người sinh ra bế tắc thì xoay vòng tất cả bốn phần. Ở đây cũng như vậy, cho nên hai Tôn giả trú vào nhiều-ít đều khác nhau.

Hỏi: Tự tánh của bốn Vô ngại giải là gì?

Đáp: Tự tánh là Tuệ. Vì sao biết như vậy? Như trong luận Phẩm Loại Túc nói: “Pháp vô ngại giải là thế nào? Đó là Trí không thối chuyển đối với Văn-Cú-Danh thân. Nghĩa vô ngại giải là thế nào? Đó là Trí không thối chuyển đối với Thắng nghĩa. Từ vô ngại giải là thế nào? Đó là Trí không thối chuyển đối với ngôn từ. Biện vô ngại giải là thế nào? Đó là Trí không thối chuyển đối với sự giảng giải hợp lý không vướng mắc, và tự tại trong Định-Tuệ.” Vì vậy cho nên biết Tuệ là tự tánh, bởi vì Trí tức là Tuệ. Đó gọi là tự tánh của Vô ngại giải, là Ngã, là vật, là tánh, là tướng, là bổn tánh.

Đã nói về tự tánh, nay sẽ nói đến nguyên cớ.

Hỏi: Vì sao gọi là Vô ngại giải?

Đáp: Thông hiểu không vướng mắc đối với cảnh đã nhận biết gọi là Vô ngại giải, đó là Pháp vô ngại giải đối với đối với Văn-Cú-Danh thân, Nghĩa vô ngại giải đối với Thắng nghĩa về Niết-bàn, Từ vô ngại giải đối với ngôn từ của các phương, Biện vô ngại giải đối với Chánh thuyết và đạo, dùng Trí không thối chuyển để giải thích không có gì chướng ngại.

Có người nói: Đối với cảnh đã nhận biết đang thấy mà nhận biết thì gọi là Vô ngại giải, như thế gian ở trong một sự việc đang thấy nói là tôi hiểu biết không có gì ngăn ngại đối với điều này.

Có người nói: Pháp này nên gọi là Thâm mật giải, đó là bởi vì hiểu đến nơi sâu kín của A-tỳ-đạt-ma.

Có người nói: Pháp này nên gọi là Tùy ứng giải, đó là bởi vì hễ ở cảnh nào thì như thích hợp mà hiểu rõ.

Bốn Vô ngại giải này: Nói về Cõi, thì Pháp-Từ vô ngại giải rơi vào cõi Dục-Sắc, Nghĩa-Biện vô ngại giải rơi vào ba cõi và không rơi vào cõi.

Nói về Địa, thì Pháp vô ngại giải, có người nói: Thuộc về hai địa, đó là cõi Dục-Tĩnh lự thứ nhất.

Có người nói: Thuộc về năm địa, đó là cõi Dục và bốn Tĩnh lự.

Có người nói: Thuộc về bảy địa, đó là cõi Dục-Vị chí-Tĩnh lự trung gian và bốn Tĩnh lự.

Nghĩa-Biện vô ngại giải, hữu lậu thì thuộc về mười một địa, đó là cõi Dục-Vị chí-Tĩnh lự trung gian-bốn Tĩnh lự và bốn Vô sắc; vô lậu thì thuộc về chín địa, đó là Vị chí-Tĩnh lự trung gian-bốn Tĩnh lự và ba Vô sắc.

Từ vô ngại giải thuộc về hai địa, đó là cõi Dục-Tĩnh lự thứ nhất.

Nói về Sở y, thì bốn Vô ngại giải đều dựa vào cõi Dục.

Nói về Hành tướng, thì Pháp-Từ vô ngại giải là hành tướng không rõ ràng.

Nghĩa vô ngại giải, những người có ý muốn khiến cho chỉ có Niếtbàn là Thắng nghĩa, họ nói làm bốn hành tướng của Diệt và hành tướng không rõ ràng; những người có ý muốn khiến cho tất cả các pháp là Thắng nghĩa, họ nói làm mười sáu hành tướng và hành tướng không rõ ràng.

Biện vô ngại giải, có người nói: Làm mười hai hành tướng và hành tướng không rõ ràng.

Có người nói: Làm bốn hành tướng của Đạo và hành tướng không rõ ràng

Nói về Sở duyên, thì Pháp vô ngại giải duyên với Văn-Cú-Danh thân. Nghĩa vô ngại giải, hoặc có người muốn khiến cho chỉ duyên với Diệt đế, hoặc có người muốn khiến cho duyên với tất cả các pháp. Từ vô ngại giải duyên với ngôn từ. Biện vô ngại giải duyên với đạo và thuyết giảng.

Nói về Niệm trú, thì Pháp vô ngại giải là Pháp niệm trú. Nghĩa vô ngại giải, hoặc có người muốn khiến cho chỉ có Pháp niệm trú, hoặc có người muốn khiến cho đầy đủ bốn Niệm trú.

Từ vô ngại giải là Thân niệm trú. Biện vô ngại giải là bốn Niệm trú.

Nói về Trí, thì Pháp-Từ vô ngại giải là Thế tục trí.

Nghĩa vô ngại giải, những người có ý muốn khiến cho chỉ có Niếtbàn là Thắng nghĩa, có người nói: Tánh thuộc sáu trí, đó là Pháp tríLoại trí-Thế tục trí-Diệt trí-Tận trí-Vô sinh trí.

Có người nói: Tánh thuộc bốn trí, trừ ra Tận trí-Vô sinh trí, bởi vì Vô ngại giải là tánh Kiến.

Những người có ý muốn khiến cho tất cả các pháp là Thắng nghĩa, có người nói: Tánh thuộc mười trí.

Có người nói: Tánh thuộc tám trí, trừ ra Tận trí-Vô sinh trí.

Biện vô ngại giải, có người nói: Tánh thuộc chín trí, trừ ra Diệt trí.

Có người nói: Tánh thuộc bảy trí, lại trừ ra Tận trí-Vô sinh trí.

Có người nói: Tánh thuộc sáu trí, là Pháp trí-Loại trí-Thế tục tríĐạo trí-Tận trí-Vô sinh trí.

Có người nói: Tánh thuộc bốn trí, lại trừ ra Tận trí-Vô sinh trí.

Nói về Tam-ma-địa đi cùng, thì Pháp-Từ vô ngại giải không phải là đi cùng với Tam-ma-địa.

Nghĩa vô ngại giải, hoặc có người muốn khiến cho chỉ có Vô tướng và không phải là đi cùng với Tam-ma-địa; hoặc có người muốn khiến cho có đủ ba Tam-ma-địa và không phải là đi cùng với Tam-ma-địa.

Biện vô ngại giải, có người nói: Không-Vô nguyện và không phải là đi cùng với Tam-ma-địa.

Có người nói: Chỉ có Vô nguyện thuộc Đạo và không phải là đi cùng với Tam-ma-địa.

Nói về Căn tương ưng, thì nói chung là tương ưng với ba căn, nhưng cõi Dục thì tương ưng với Hỷ-Xả căn, hai Tĩnh lự đầu tương ưng với Hỷ căn, Tĩnh lự thứ ba tương ưng với Lạc căn, ở địa khác thì chỉ tương ưng với Xả căn.

Nói về Thời gian(thế), thì đều thuộc về ba thời gian. Pháp-Biện vô ngại giải duyên với ba thời gian. Từ vô ngại giải thì quá khứ duyên với quá khứ, hiện tại duyên với hiện tại, vị lai sinh khởi thì duyên với vị lai, không sinh khởi thì duyên với ba thời gian.

Có người nói: Pháp và Từ vô ngại giải giống nhau.

Có người nói: Pháp-Từ-Biện vô ngại giải, quá khứ-hiện tại duyên với quá khứ, vị lai duyên với ba thời gian.

Nghĩa vô ngại giải, hoặc có người muốn khiến cho chỉ duyên với tách lìa thời gian; hoặc có người muốn khiến cho duyên với ba thời gian và tách lìa thời gian.

Nói về thiện-bất thiện-vô ký, thì đều là thiện. Pháp vô ngại giải duyên với vô ký.

Nghĩa vô ngại giải, hoặc có người muốn khiến cho chỉ duyên với thiện; hoặc có người muốn khiến cho duyên với ba loại.

Từ-Biện vô ngại giải duyên với ba loại.

Nói về hệ thuộc ba cõi-không hệ thuộc, thì Pháp-Từ vô ngại giải hệ thuộc cõi Dục-Sắc. Nghĩa-Biện vô ngại giải hệ thuộc ba cõi và không hệ thuộc.

Pháp vô ngại giải, những người có ý muốn khiến cho cõi Vô sắc cũng có Văn-Cú-Danh thân, họ nói là duyên với hệ thuộc ba cõi; những người có ý muốn khiến cho cõi Vô sắc không có Văn-Cú-Danh thân, họ nói là duyên với hệ thuộc cõi Dục-Sắc.

Nghĩa vô ngại giải, hoặc có người muốn khiến cho chỉ duyên với không hệ thuộc; hoặc có người muốn khiến cho duyên với hệ thuộc ba cõi và không hệ thuộc.

Từ vô ngại giải duyên với hệ thuộc cõi Dục-Sắc.

Biện vô ngại giải, có người nói: Duyên với hệ thuộc ba cõi và không hệ thuộc.

Có người nói: Duyên với hệ thuộc cõi Dục-Sắc và không hệ thuộc.

Nói về Học-Vô học và Phi học phi vô học, thì Pháp-Từ vô ngại giải là Phi học phi vô học, duyên cũng như vậy.

Nghĩa-Biện vô ngại giải là Vô học và Phi học phi vô học.

Nghĩa vô ngại giải, hoặc có người muốn khiến cho chỉ duyên với Phi học phi vô học; hoặc có người muốn khiến cho duyên với ba loại.

Biện vô ngại giải duyên với ba loại.

Nói về do Kiến mà đoạn-do Tu mà đoạn và không đoạn, thì PhápTừ vô ngại giải là do Tu mà đoạn, duyên cũng như vậy.

Nghĩa-Biện vô ngại giải, hữu lậu thì do Tu mà đoạn, vô lậu thì không đoạn.

Nghĩa vô ngại giải, hoặc có người muốn khiến cho chỉ duyên với không đoạn; hoặc có người muốn khiến cho duyên với ba loại. Biện vô ngại giải duyên với do Tu mà đoạn và không đoạn.

Nói về duyên với danh-duyên với nghĩa, thì Pháp vô ngại giải chỉ duyên với danh.

Nghĩa vô ngại giải, hoặc có người muốn khiến cho chỉ duyên với nghĩa; hoặc có người muốn khiến cho duyên chung với danh và nghĩa.

Từ-Biện vô ngại giải chỉ duyên với nghĩa.

Nói về duyên với Tự tương tục-Tha tương tục và Phi tương tục, thì Pháp-Từ-Biện vô ngại giải duyên với Tự tương tục-Tha tương tục.

Có người nói: Chỉ duyên với Tự tương tục.

Nghĩa vô ngại giải, hoặc có người muốn khiến cho chỉ duyên với Phi tương tục; hoặc có người muốn khiến cho duyên với ba loại.

Nói về gia hạnh đắc-lìa nhiễm đắc, thì gồm chung gia hạnh đắc và lìa nhiễm đắc.

Trong đó có người nói: Đức Phật lìa nhiễm đạt được, bởi vì đạt được lúc Tận trí hiện khởi; Thanh văn-Độc giác do gia hạnh mà đạt được, bởi vì gia hạnh cho nên hiện rõ ở trước mắt.

Có người nói: Đức Phật và Độc giác đều lìa nhiễm đạt được, bởi vì đạt được lúc Tận trí hiện khởi; Thanh văn do gia hạnh mà đạt được, bởi vì gia hạnh cho nên hiện rõ ở trước mắt.

Có người nói: Đức Phật-Độc giác và Thanh văn đến cứu cánh đều lìa nhiễm đạt được, bởi vì đạt được lúc Tận trí hiện khởi; Thanh văn khác do gia hạnh mà đạt được, bởi vì gia hạnh mà hiện rõ ở trước mắt.

Nói như vậy là nếu quyết định có thể đạt được thì đó là lìa nhiễm đạt được, bởi vì đạt được lúc Tận trí hiện khởi, sau khi thực hiện gia hạnh mới hiện rõ ở trước mắt. Đức Phật không do gia hạnh, Độc giác do gia hạnh bậc Hạ, Thanh văn do gia hạnh bậc Trung hoặc là bậc Thượng.

Có lúc Vô ngại giải do gia hạnh mà đạt được, bởi vì gia hạnh mà hiện rõ ở trước mắt.

Hỏi: Bốn Vô ngại giải gia hạnh như thế nào?

Đáp: Có người nói: Pháp vô ngại giải lấy luyện tập về Số luận làm gia hạnh, Nghĩa vô ngại giải lấy luyện tập về lời dạy của Đức Phật làm gia hạnh, Từ vô ngại giải lấy luyện tập về Thanh luận làm gia hạnh, Biện vô ngại giải lấy luyện tập về Nhân luận làm gia hạnh. Đối với bốn điều này, nếu chưa khéo léo tài tình thì chắc chắn không có thể sinh khởi Vô ngại giải.

Có người nói: Pháp-Từ vô ngại giải lấy luyện tập về Ngoại luận làm gia hạnh, Nghĩa-Biện vô ngại giải lấy luyện tập về Nội luận làm gia hạnh.

Nói như vậy thì bốn Vô ngại giải đều lấy sự luyện tập về lời dạy của Đức Phật làm gia hạnh. Như ở trong một bài tụng, nên nói tên gọi ấy như vậy, luyện tập về nói tên gọi như vậy, là gia hạnh của Pháp vô ngại giải; nên hiểu ý nghĩa ấy như vậy, luyện tập về hiểu ý nghĩa như vậy, là gia hạnh của Nghĩa vô ngại giải; nên giải thích từ ngữ ấy như vậy, luyện tập về giải thích từ ngữ như vậy, là gia hạnh của Từ vô ngại giải; nên giảng nói không vướng mắc như vậy, luyện tập về giảng nói không vướng mắc như vậy, là gia hạnh của Biện vô ngại giải. Vì thế cho nên bốn Vô ngại giải đều lấy sự luyện tập về lời dạy của Đức Phật làm gia hạnh.

Hỏi: Dựa vào đâu dẫn dắt phát khởi Vô ngại giải này?

Đáp: Dựa vào Tuệ thuộc Định Biên tế của Tĩnh lự thứ tư mà dẫn dắt phát khởi.

Hiếp Tôn giả nói: “Dựa vào Tuệ của cả bốn Tĩnh lự dẫn dắt phát khởi.”

Hỏi: Nơi nào có thể khởi lên Vô ngại giải này?

Đáp: Chỉ ở cõi Dục có thể khởi lên, trong cõi Dục chỉ có loài người ở ba châu, thân nữ-thân nam đều có thể khởi lên.

Tôn giả Chúng Thế nói rằng: “Chỉ có châu Thiệm Bộ, chỉ có người nam có thể khởi lên.”

Nói như vậy thì cách nói trước là hợp lý, bởi vì nam-nữ ở ba châu đều có thể giữ lại thọ mạng và rời bỏ thọ mạng.

Hỏi: Những Bổ-đặc-già-la nào có thể khởi lên Vô ngại giải?

Đáp: Thánh giả chứ không phải là dị sinh. Trong hàng Thánh chỉ có Vô học, không phải là Hữu học. Trong Vô học chỉ có Bất thời giải thoát, không phải là Thời giải thoát. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì nếu như trong sự nối tiếp nhau không bị phiền não níu giữ và đạt được Định tự tại, thì có thể khởi lên. Các dị sinh và Tín thắng giải cả hai sự việc đều không có; Kiến chí tuy đối với Định đạt được tự tại, mà trong sự nối tiếp nhau bị phiền não níu giữ; Thời giải thoát tuy sự nối tiếp nhau không bị phiền não níu giữ, mà đối với Định không đạt được tự tại; vì thế cho nên đều không có thể phát khởi. Chỉ có Bất thời giải thoát đối với Định đạt được tự tại, và trong sự nối tiếp nhau không bị phiền não níu giữ, cho nên có thể khởi lên.

Hỏi: Bốn Vô ngại giải theo thứ tự như thế nào, là như giảng nói mà khởi lên, hay là không phải như vậy?

Đáp: Có người nói: Như thuyết mà khởi lên. Như trong kinh trước tiên nói về Nghĩa vô ngại giải vì thế cho nên khởi lên trước, cho đến sau cùng nói về Biện vô ngại giải vì thế cho nên khởi lên sau. Nghĩa là Sư Du-già bởi vì biết nghĩa cho nên trước khởi lên Nghĩa vô ngại giải; tuy đã biết nghĩa mà đối với các tên gọi chưa khéo sắp xếp, vì thế cho nên tiếp theo khởi lên Pháp vô ngại giải; tuy đối với các tên gọi đã khéo sắp xếp mà đối với ngôn từ chưa có thể giải thích rành mạch, vì thế cho nên tiếp theo khởi lên Từ vô ngại giải; tuy đối với ngôn từ đã có thể giải thích rành mạch mà chưa có thể giảng giải hợp lý không vướng mắc, vì thế cho nên sau cùng khởi lên Biện vô ngại giải.

Có người nói: Như thuyết mà khởi lên. Như trong A-tỳ-đạt-ma trước tiên nói về Pháp vô ngại giải vì thế cho nên khởi lên trước, cho đến sau cùng nói về Biện vô ngại giải, vì thế cho nên khởi lên sau. Nghĩa là Sư Du-già bởi vì biết các tên gọi sắp xếp theo thứ tự, vì thế cho nên trước tiên khởi lên Pháp vô ngại giải; tuy biết các tên gọi sắp xếp theo thứ tự mà chưa hiểu rõ về nghĩa đã giải thích, vì thế cho nên tiếp theo khởi lên Nghĩa vô ngại giải; hai loại sau nói như trước.

Có người nói: Không như thuyết mà khởi lên, nghĩa là trước tiên khởi lên Từ, tiếp theo khởi lên Pháp, tiếp theo khởi lên Nghĩa, sau cùng khởi lên Biện. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì hành giả ấy trước phải hiểu rõ ràng về ngôn từ của thế tục, tiếp theo biết các tên gọi dựa vào ngôn từ, tiếp theo biết nghĩa lý dựa vào các tên gọi, biết ba sự việc này rồi mới có thể giảng giải hợp lý không vướng mắc, vì thế cho nên Từ có thể dẫn dắt Pháp, Pháp có thể dẫn dắt Nghĩa, Nghĩa có thể dẫn dắt Biện.

Hỏi: Bốn Vô ngại giải theo từng loại một mà đạt được hay là không phải như vậy?

Đáp: Nếu đạt được cùng lúc thì chắc chắn đạt được đầy đủ bốn loại, như bốn Thánh chủng cùng lúc mà đạt được, tùy theo sự yêu thích lần lượt hiện rõ trước mắt.

Hỏi: Độc giác-Thanh văn đến cứu cánh đạt được Vô ngại giải hay không? Nếu đạt được thì trí không có thối chuyển gọi là Vô ngại giải, do trí này mà nhận biết sẽ không sai lầm, vì sao Tôn giả Đại Mục-kiềnliên ghi nhận người ta sinh con trai mà sau lại sinh con gái, ghi nhận trời sẽ mưa mà cuối cùng lại không mưa, ghi nhận quân của thành Vương Xá sẽ thắng mà lại bị quân của thành Phệ-xá-ly đánh bại? Độc giác vì sao không có thể thuyết pháp? Bài tụng đã nói lại hiểu thế nào?

“Chỉ riêng Đức Phật xưng Vô học,
Là người đạt được Vô ngại giải,
Đến bờ bên kia của công đức,
Vĩnh viễn không có những sai lầm.”

Nếu không đạt được thì tại sao trong kinh nói: “Trong đệ tử của Ta, Ma-ha Câu-sắt-si-la đạt được Vô ngại giải.” Tôn giả ấy căn tánh yếu kém mà Đức Phật còn nói đạt được, Đại Mục-kiền-liên căn tánh mạnh hơn so với vị ấy, vì sao không đạt được?

Đáp: Nên nói Độc giác-Thanh văn đến cứu cánh cũng đạt được Vô ngại giải.

Hỏi: Trí không có thối chuyển gọi là Vô ngại giải, vì sao Tôn giả Đại Mục-kiền-liên đã ghi nhận lại có sai lầm?

Đáp: Trí của vị ấy không có thối chuyển ở trong cảnh đã quán thuộc phần của mình, chứ không phải là ở trong cảnh không quán thuộc phần khác, cho nên không có gì sai. Như vị ấy đã ghi nhận, trước thật sự là con trai sau chuyển làm con gái, lúc ấy trời cũng mưa nhưng vua A-tố-lạc La-hỗ-la đón lấy đưa vào biển lớn; còn hai nước lúc sắp đánh nhau, thì trước đó Dược-xoa Hộ Quốc đánh nhau với Dược-xoa ở thành Vương Xá, đầu thắng-sau bại, người trong nước cũng như vậy, chứ không phải là ban đầu không thắng. Nhưng Tôn giả ấy ở trong các sự việc như ghi nhận về sinh con trai… này, chỉ quán xét phần vị trước mà không quán xét phần vị sau, nếu như quán xét phần vị sau thì sự ghi nhận cũng không có gì sai lầm.

Hỏi: Nếu Độc giác cũng đạt được Vô ngại giải, thì vì sao không có thể thuyết pháp cho người khác?

Đáp: Bởi vì họ yêu quý vắng lặng-thích ở một mình, sợ hãi ồn ào tạp loạn-chán ngán tụ tập đông đúc, thấy rõ công đức của xa lìa-lỗi lầm của ồn náo, tâm rời bỏ đồ chúng lẽ nào có thể thuyết pháp hay sao?

Có người nói: Tất cả Độc giác đều là hành thuộc Xa-ma-tha, phải là hành thuộc Tỳ-bát-xá-na thì mới có thể thuyết pháp.

Có người nói: Bởi vì tất cả Độc giác không thích sắp xếp DanhCú-Văn thân.

Có người nói: Họ quán xét kỹ càng giả sử mình thuyết pháp, mà người ấy sẽ có thể tiến vào Chánh tánh ly sinh, đạt được quả-lìa nhiễm và không còn phiền não thì mình cũng nên nói, nhưng không có thể như vậy, mình đâu có thể uổng phí công sức như vậy? Vì thế cho nên không nói.

Có người nói: Tất cả Độc giác có năng lực suy tính kỹ càng, thế gian chỉ có hai loại đã được giáo hóa:

  1. Do Đức Phật giáo hóa.
  2. Do Thanh văn giáo hóa.

Không có hữu tình nào do Độc giác giáo hóa, cho nên không thuyết pháp.

Có người nói: Nói đến thuyết pháp thì nhờ vào hai nhân duyên:

  1. Do Lực mà dẫn dắt phát khởi.
  2. Do thuận theo người khác dạy bảo.

Độc giác không có Lực, không thuận theo người khác dạy bảo.

Lại nữa:

  1. Vô úy dẫn dắt phát khởi.
  2. Do thuận theo người khác dạy bảo.

Độc giác không có Vô úy, không thuận theo người khác dạy bảo.

Lại nữa:

  1. Đại Bi dẫn dắt phát khởi.
  2. Do thuận theo người khác dạy bảo.

Độc giác không có Đại Bi, không thuận theo người khác dạy bảo, vì thế cho nên họ không có thể thuyết pháp.

Hỏi: Thuyết pháp là do có đủ tất cả pháp của Phật, vì sao chỉ nói đến Lực-Vô úy-Đại Bi chứ không phải là những pháp khác?

Đáp: Lực có thể thành lập vững vàng về luận thuyết của mình, Vô úy có thể phá bỏ luận thuyết của người khác, Đại Bi có thể khởi lên ý muốn thuyết pháp, lại không cần đến pháp nào khác, cho nên chỉ nói đến những pháp này.

Có người nói: Độc giác ấy dấy lên tư duy như vậy: Người có thể thuyết pháp, đó là bậc Pháp Vương và con của bậc Pháp Vương, mình không phải là Pháp Vương cũng không phải là con của bậc Pháp Vương, sao có thể thuyết pháp? Vì thế cho nên không thuyết pháp.

Có người nói: Độc giác ấy dấy lên ý nghĩ như vậy: Mình từ xưa đến nay không hề luyện tập học hỏi các sự việc về thuyết pháp. Vì thế cho nên không thuyết pháp.

Có người nói: Nếu tự mình giác ngộ mà đối với ba loại sự việc điều phục đúng đắn, đạt được khéo léo tài tình thì mới có thể thuyết pháp, Độc giác thì không như vậy.

Có người nói: Tự mình giác ngộ mà có đủ Nhất thiết trí-Nhất thiết chủng trí thì mới có thể thuyết pháp, Độc giác thì không như vậy.

Có người nói: Nói đến thuyết giảng về Chánh pháp thì đều vì phá Ngã, lúc Độc giác xuất thế bởi vì chúng sinh chấp Ngã kiên cố khó phá bỏ, cho nên không thuyết pháp.

Có người nói: Người tự mình giác ngộ thì tâm ở lúc thuyết pháp chắc chắn dựa vào Niết-bàn, nếu lúc Độc giác khởi tâm hướng đến Niếtbàn, thì Sát-na thứ hai liền tiến vào tịch diệt, bởi vì rất thích giải thoát; Như Lai thì không như vậy, tuy ưa thích giải thoát mà vì Đại Bi-Đại Xả đã duy trì, cho nên có thể an trú lâu dài để thuyết pháp.

Có người nói: Tự mình giác ngộ mà có thể thành tựu về pháp không có quên mất thì mới có thể thuyết pháp, Độc giác nếu ở trong rừng vắng lặng trống trải thì có thể dùng Vô ngại giải để sắp xếp về Danh-Cú-Văn thân như Uẩn-Giới-Xứ…, nếu lúc đi vào thôn làng thực hành khất thực thì sự sắp xếp trước đây có lúc quên mất, lúc ấy dấy lên nghĩ rằng: Mình đã không đạt được pháp không có quên mất, thì đâu cần phải thuyết pháp? Vì thế cho nên không thuyết pháp.

Có người nói: Pháp của chủng tánh Độc giác thuận theo như vậy, tuy đạt được Vô ngại giải mà không thích thuyết pháp, muốn làm lợi ích thì chỉ có hiện bày thần thông, hoặc là chỉ truyền trao tám giới Trai cho người khác.

Hỏi: Nếu Thanh văn-Độc giác cũng đạt được Vô ngại giải, thì bài tụng đã nói lại hiểu thế nào?

Đáp: Bởi vì chỉ riêng Đức Phật đã đạt được cứu cánh-viên mãnthù thắng-tự tại không có gì sai lầm, cho nên nói như vậy, không phải là nói Nhị thừa đều không thành tựu. Nếu không như vậy thì Nhị thừa lẽ ra cũng không đạt được Vô học, bởi vì bài tụng nói chỉ riêng Đức Phật xưng Vô học.

Có Sư khác nói: Tất cả Thanh văn-Độc giác không đạt được bốn Vô ngại giải.

Hỏi: Vì sao trong kinh nói: “Trong đệ tử của Ta, Ma-ha Câu-sắtsi-la đạt được Vô ngại giải.” Căn tánh vị ấy không phải là hơn hẳn mà Đức Phật còn nói đạt được, Độc giác-Thanh văn đến cứu cánh thì căn tánh mạnh hơn so với vị ấy, vì sao nói là tất cả không đạt được?

Đáp: Đó là đã nói đến đạt được là căn thiện tương tự Vô ngại giải mà không phải là chân thật. Bởi vì Tôn giả ấy ở trong sinh tử dằng dặc, yêu thích pháp này mà tinh tiến chịu khó tu tập, Đức Phật thuận theo ý đó cho nên nói là đạt được pháp ấy; các vị khác tuy đạt được căn thiện tương tự với pháp này, mà không phải là rất yêu thích tinh tiến chịu khó tu tập, cho nên không nói là đạt được pháp ấy.

Hỏi: Vì sao tất cả Nhị thừa không đạt được Vô ngại giải?

Đáp: Trí không có thối chuyển gọi là Vô ngại giải, trí của Thanh văn-Độc giác có thối chuyển đối với các cảnh giới, bởi vì đã ghi nhận và nói ra có sai lầm, cho nên không phải là Vô ngại giải.

Nói như vậy thì cách nói trước là hợp lý, bởi vì trí của Thanh vănĐộc giác không có thối chuyển ở trong cảnh thuộc phần của mình.

Trong này, Nguyện trí thâu nhiếp Nguyện trí-Biên tế trí-Vô tranh trí-bốn Vô ngại giải.

Như Nguyện trí, nên biết Nghĩa vô ngại giải cũng như vậy.

Biên tế trí không thâu nhiếp Từ vô ngại giải, còn lại nói như Nguyện trí.

Vô tranh trí thâu nhiếp Vô tranh trí-Nguyện trí-Biên tế trí.

Nghĩa vô ngại giải không thâu nhiếp Pháp-Từ-Biện vô ngại giải.

Như Vô tranh, nên biết Pháp-Từ-Biện vô ngại giải cũng như vậy.

Như sự thích hợp của mỗi loại đều nói thâu nhiếp chính mình, trừ ra Vô tranh-Từ vô ngại giải, và không thâu nhiếp Biên tế trí, bởi vì bảy loại này đều dựa vào Định Biên tế mà đạt được, do lực của Định Biên tế mà dẫn dắt phát khởi. Thể của Tĩnh lự Biên tế có sáu loại, đó là bảy loại trừ ra Từ vô ngại giải, bởi vì phẩm cao nhất của Tĩnh lự thứ tư gọi là Biên tế.

Có Sư khác nói: Phẩm cao nhất của bốn Tĩnh lự đều gọi là Biên tế. Vì thế cho nên vị ấy nói Tĩnh lự Biên tế có đủ bảy loại-bảy trí thâu nhiếp lẫn nhau, cũng có sai biệt dựa theo trên nên biết. Nhưng có thể dẫn dắt phát khởi, chỉ là Biên tế của Tĩnh lự thứ tư chứ không phải là pháp nào khác.

********

 

Như nói: “Trong đệ tử của Ta, Đại Ca-diếp-ba ít muốn-vui đủ-đầy đủ hạnh Đầu-đà (đổ đa), Bạc-cử-la ít bệnh-tiết kiệm-đầy đủ giới hạnh thanh tịnh.”

Hỏi: Hai vị này có gì sai biệt?

Đáp: Tôn giả Đại Ca-diếp-ba có được đồ ăn thức uống hoặc dởhoặc ngon, đều lần lượt mà ăn chứ không hề chọn lựa, giống như con ngựa hay tùy theo thức ăn có được mà ăn; Tôn giả Bạc-cử-la có được đồ ăn thức uống hoặc dở-hoặc ngon, chọn bỏ loại ngon mà ăn loại dở.

Hỏi: Vì sao Tôn giả Đại Ca-diếp-ba thì ngon dở đều ăn, mà Tôn giả Bạc-cử-la bỏ ngon-ăn dở?

Đáp: Tôn giả Đại Ca-diếp-ba có đủ niềm vui vi diệu trú trong pháp của Sa-môn, có đủ niềm vui vi diệu cho nên không bỏ thức ăn ngon, trú trong pháp của Sa-môn cho nên không bỏ thức ăn dở, chỉ tùy theo có được lần lượt mà ăn. Tôn giả Bạc-cử-la có đủ niềm vui thô thiển trú trong pháp của Sa-môn, có đủ niềm vui thô thiển cho nên chọn bỏ thức ăn ngon, trú trong pháp của Sa-môn cho nên chọn ăn thức ăn dở.

Lại nữa, Tôn giả Đại Ca-diếp-ba, hiểu biết rộng-phước lớn, dễ có được áo quần-ăn uống-đồ nằm-thuốc thang và các vật dụng sinh hoạt, nhưng không tiếp nhận trước công đức Đầu-đà mà có thể phụng hành. Vị ấy do hai duyên thật là khó làm, đó là dễ có được lợi dưỡng, không tiếp nhận công đức Đầu-đà mà có thể phụng hành. Tôn giả Bạc-cử-la, không phải là hiểu biết rộng-phước lớn, khó có được áo quần-ăn uốngđồ nằm-thuốc thang và các vật dụng sinh hoạt, nhưng tiếp nhận trước công đức Đầu-đà mà cũng có thể phụng hành. Tỳ kheo ít hiểu biết mà tiếp nhận công đức Đầu-đà, ở trong sự tùy chuyển này không phải là khó. Vị ấy do hai duyên không phải là khó làm, đó là khó có được lợi dưỡng, tiếp nhận trước công đức Đầu-đà thuận theo mà phụng hành.

Có người đối với văn này đưa ra cách tụng trái ngược nhau, đó là Tôn giả Đại Ca-diếp-ba, hiểu biết rộng-phước lớn, dễ có được áo quần-ăn uống-đồ nằm-thuốc thang và các vật dụng sinh hoạt, tiếp nhận trước công đức Đầu-đà thuận theo mà phụng hành. Tôn giả Bạc-cử-la, không phải là hiểu biết rộng-phước lớn, khó có được áo quần-ăn uốngđồ nằm-thuốc thang và các vật dụng sinh hoạt, không tiếp nhận trước công đức Đầu-đà này thuận theo mà phụng hành. Tỳ kheo ít hiểu biết không tiếp nhận công đức Đầu-đà, ở trong sự tùy chuyển này không phải là khó. Vị ấy do hai duyên không phải là khó làm, đó là khó có được lợi dưỡng, không tiếp nhận trước công đức Đầu-đà thuận theo mà phụng hành. Đây là hiển bày về Đại Ca-diếp-ba do ba sự việc cho nên hơn hẳn, đó là có đủ niềm vui vi diệu, dễ có được lợi dưỡng, tiếp nhận phụng hành công đức Đầu-đà.

Hỏi: Vì sao Tôn giả Bạc-cử-la chọn bỏ thức ăn ngon mà lại ăn thức ăn dở?

Đáp: Bởi vì sức mạnh của ý thích, ý thích của hữu tình không giống nhau, tùy theo ý thích của mình mà ăn, không cần phải vặn hỏi về lý do của điều ấy.

Có người nói: Đồ ăn thức uống ngon lành tuyệt vời, phải dùng nhiều công sức để làm thành, không muốn nhọc nhằn tốn kém, vì thế cho nên không ăn.

Có người nói: Đồ ăn thức uống ngon lành tuyệt vời, tăng trưởng tâm lý tham ái, phần nhiều từ đây mà khởi lên tranh chấp, vì thế cho nên không ăn.

Có người nói: Đồ ăn thức uống ngon lành chính là nhà giàu vốn có, bởi vì làm lợi ích cho nhà nghèo, cho nên không ăn.

Có người nói: Thức ăn ngon lành chắc chắn bởi vì giết hại nhiều mạng sống, lấy máu thịt của nhiều thân mạng mà làm thành, bởi vì thương xót hữu tình ấy, cho nên không ăn.

Có người nói: Thức ăn ngon lành phần nhiều sinh ra các loại lỗi lầm tai họa, vì vậy không ăn.

Hỏi: Như đã nói Tôn giả Bạc-cử-la chọn bỏ thức ăn ngon, là ban đầu đã không nhận, hay là nhận rồi vứt bỏ? Giả sử như vậy thì có gì sai? Nếu ban đầu đã không nhận, thì làm sao gọi là người thực hành hạnh Đầu-đà khất thực theo thứ tự mà nhận? Nếu nhận rồi vứt bỏ, thì làm sao không tổn hoại đồ vật cúng dường của thí chủ?

Đáp: Nên nói là ban đầu đã không nhận.

Hỏi: Nếu như vậy thì làm sao gọi là người thực hành hạnh Đầu-đà khất thực theo thứ tự mà nhận? Đáp: Tôn giả ấy đạt được Nguyện trí và Thiên nhãn, lúc sắp khất thực, trước tiên quán xét ngõ xóm-thành ấp nào, ở phương nào chỉ có thức ăn dở, biết rồi liền đi đến khất thực theo thứ tự.

Như trong kinh nói: “Có bốn Thánh chủng:

  1. Thánh chủng dựa vào niềm vui biết đủ tùy theo ăn uống đã có được.
  2. Thánh chủng dựa vào niềm vui biết đủ tùy theo áo quần đã có được.
  3. Thánh chủng dựa vào niềm vui biết đủ tùy theo đồ nằm đã có được.
  4. Thánh chủng dựa vào có-không có vui với Đoạn-vui với Tu.”

Hỏi: Vì sao Đức Thế Tôn nói ra kinh này?

Đáp: Bởi vì an lập về sản nghiệp và việc làm cho các đệ tử. Đó là ba loại trước an lập về sản nghiệp, loại thứ tư an lập về việc làm.

Ba loại trước an lập về sản nghiệp, đó là rời bỏ bốn loại nghiệp, thực hành một loại nghiệp.

Rời bỏ bốn loại nghiệp:

  1. Lấy ruộng đất làm sự nghiệp.
  2. Lấy buôn bán làm sự nghiệp.
  3. Lấy thuê mướn làm sự nghiệp.
  4. Lấy tự tại làm sự nghiệp.

Đối với những loại này đều rời bỏ.

Thực hành một loại nghiệp, đó là chỉ lấy khất thực làm sự nghiệp.

Có người nói: Bởi vì hiển bày rõ ràng về nghiệp cung cấp không hết và những việc cần làm.

Lại nữa, bởi vì hiển bày rõ ràng về nghiệp cung cấp không có tội và những việc cần làm.

Lại nữa, bởi vì hiển bày rõ ràng về nghiệp cung cấp không có tổn hại và những việc cần làm.

Lại nữa, bởi vì hiển bày rõ ràng về nghiệp cung cấp không giống như ngoại đạo và những việc cần làm.

Trong này, nghiệp cung cấp là ba loại trước, việc cần làm là loại thứ tư.

Có người nói: Bởi vì hiển bày rõ ràng về đạo và tư lương của đạo.

Trong này, ba loại trước là hiển bày về tư lương của đạo, một loại sau là hiển bày về đạo.

Như đạo và tư lương của đạo, như vậy Sa-môn và tư lương của Sa-môn, Bà-la-môn và tư lương của Bà-la-môn, Phạm hạnh và tư lương của Phạm hạnh, nên biết cũng như vậy.

Bởi vì những nghĩa này, cho nên Đức Phật thuyết ra kinh Thánh Chủng này.

Hỏi: Tự tánh của Thánh chủng là thế nào?

Đáp: Đều lấy căn thiện không tham để làm tự tánh.

Có người nói: Ba loại trước là căn thiện không tham, một loại sau là Tinh tiến.

Nói như vậy thì cách nói trước là hợp lý, bởi vì đều đối trị với tham.

Hỏi: Nếu như vậy thì dựa vào nghĩa đâu khác nhau mà nói là bốn Thánh chủng?

Đáp: Bởi vì đối trị với bốn loại Ái, đó là đối với niềm vui biết đủ về áo quần đối trị với Ái về áo quần, đối với niềm vui biết đủ về ăn uống đối trị với Ái về ăn uống, đối với niềm vui biết đủ về đồ nằm đối trị với Ái về đồ nằm, vui với Đoạn-vui với Tu đối trị với Ái về có-không có.

Vì vậy cho nên nói đều là tánh không tham. Nếu bao gồm Tương ưng-Tùy chuyển, thì cõi Dục-Sắc là tánh thuộc năm uẩn, cõi Vô sắc là tánh thuộc bốn uẩn. Đây là tự tánh của Thánh chủng, là Ngã, là vật, là tánh, là tướng, là bổn tánh.

Đã nói về tự tánh, nay sẽ nói đến nguyên cớ.

Hỏi: Vì sao gọi là Thánh chủng?

Đáp: Có người nói: Cũng là Thánh-cũng là chủng cho nên gọi là Thánh chủng, đó là thiện cho nên gọi là Thánh, vô lậu cho nên gọi là Thánh; tức là từ đây có thể sinh ra các pháp công đức nối tiếp nhau không dứt đoạn, cho nên gọi là Thánh chủng.

Có người nói: Chủng tử của Thánh, cho nên gọi là Thánh chủng; Thánh nghĩa là tất cả pháp thiện không có trái ngược, bốn loại này có thể sinh ra mà nối tiếp nhau cho nên gọi là chủng.

Có người nói: Pháp này hiện hành ở trong sự nối tiếp nhau của Thánh giả, làm cho nó không đoạn dứt, cho nên gọi là Thánh chủng.

Có người nói: Pháp này có thể đạt được ở trong sự nối tiếp nhau của Thánh giả, khiến cho nó không đoạn dứt, cho nên gọi là Thánh chủng.

Có người nói: Thánh là quả đáng yêu-đáng mừng-đáng vui-vừa ý, pháp này có thể sinh ra quả ấy nối tiếp nhau không đoạn dứt, cho nên gọi là Thánh chủng. Đây là dựa vào quả Đẳng lưu mà nói.

Có người nói: Thánh là dị thục đáng yêu-đáng mừng-đáng vuivừa ý, pháp này có thể dẫn đến dị thục ấy nối tiếp nhau không đoạn dứt, cho nên gọi là Thánh chủng. Đây là dựa vào quả Dị thục mà nói.

Có người nói: Thánh giả tức là Phật-Độc giác-Thanh văn, các bậc ấy từ pháp này sinh ra nối tiếp nhau không đoạn dứt, cho nên gọi là Thánh chủng.

Có người nói: Chánh pháp gọi là Thánh, pháp này có thể duy trì khiến cho nối tiếp nhau lâu dài, cho nên gọi là Thánh chủng. Vì vậy Chánh pháp tồn tại ở thế gian trải qua ngàn năm mà không diệt mất, đều là do năng lực của Thánh chủng; như đòn tay-rui mè duy trì mái nhà khiến cho không rời rã hư hoại, do những duyên này cho nên gọi là Thánh chủng.

Thánh chủng: Nói về Cõi, thì đều rơi vào ba cõi và không rơi vào cõi.

Hỏi: Cõi Sắc không có ăn uống, cõi Vô sắc không có ba loại trước, làm sao ba cõi đều có đủ bốn loại?

Đáp: Ở cõi ấy tuy không có ăn uống… mà có công đức của niềm vui biết đủ thuộc cõi ấy.

Có người nói: Bởi vì cõi dưới có đủ bốn loại, cho nên lần lượt chuyển tiếp dẫn dắt sinh lên cõi trên cũng có đủ bốn loại.

Tôn giả Thế Hữu đưa ra cách nói như vậy: “Cõi trên tuy không có ăn uống… mà có pháp đối trị với các loại ấy, nhưng đối trị có bốn loại, đó là đối trị về đoạn bỏ, đối trị về chán ngán hư hoại, đối trị về nắm giữ, đối trị về phần xa. Cõi Sắc đối với ăn uống… có đủ bốn loại đối trị, cõi Dục có ba loại ngoại trừ đối trị về đoạn bỏ, cõi Vô sắc có hai loại đó là đối trị về nắm giữ và phần xa.”

Tôn giả Giác Thiên nói rằng: “Như tuy không có áo quần-ăn uống… thuộc về vô lậu mà có Thánh chủng vô lậu, như vậy tuy không có ăn uống… của cõi Sắc-Vô sắc mà có Thánh chủng của cõi ấy.”

Đại đức nói rằng: “Không chú ý đến đồ vật cung cấp cho thân hãy còn gọi là người trú trong Thánh chủng, huống gì người ấy cũng không chú ý đến thân mà cho là không có Thánh chủng sao?”

Nói về Địa, hữu lậu thì thuộc về mười một địa, vô lậu thì thuộc về chín địa.

Nói về Sở y, đều dựa vào ba cõi.

Nói về Hành tướng, đều làm mười sáu hành tướng và hành tướng khác.

Nói về Sở duyên, đều duyên với tất cả các pháp.

Nói về Niệm trú, đều là bốn Niệm trú.

Nói về Trí, đều là tám trí, hoặc là mười trí.

Nói về Tam-ma-địa đi cùng, đều đi cùng với ba Tam-ma-địa và không phải là đi cùng.

Nói về Căn tương ưng, nói chung đều tương ưng với ba căn, đó là Lạc-Hỷ-Xả căn.

Nói về Thời gian (thế), đều rơi vào ba thời gian; duyên với ba thời gian và tách lìa thời gian.

Nói về thiện-bất thiện-vô ký, đều là thiện; duyên với ba loại.

Nói về hệ thuộc ba cõi-không hệ thuộc, đều hệ thuộc ba cõi và không hệ thuộc; duyên cũng như vậy.

Hỏi: Nếu như vậy thì luận Thi Thiết nói nên hiểu thế nào? Như nói: “Bốn Thánh chủng đều không bị phiền não làm cho nhiễm ô, làm cho lẫn tạp.”

Đáp: Đó là ngăn chặn tương ưng với phiền não chứ không ngăn chặn hữu lậu, cho nên không có lỗi.

Nói về Học-Vô học-Phi học phi vô học, đều bao gồm ba loại; duyên với ba loại.

Nói về do Kiến mà đoạn-do Tu mà đoạn và không đoạn, đều do Tu mà đoạn và không đoạn; duyên với ba loại.

Nói về duyên với danh-duyên với nghĩa, đều duyên với danhnghĩa.

Nói về duyên với Tự tương tục-Tha tương tục và Phi tương tục, đều duyên với ba loại.

Nói về gia hạnh đắc-lìa nhiễm đắc-sinh đắc, là gia hạnh đắc-lìa nhiễm đắc chứ không phải là sinh đắc.

Có người nói: Cũng là sinh đắc.

Nói như vậy thì cách nói trước là hợp lý. Nếu thiện do sinh mà có được cũng là Thánh chủng, thì kiến mối ruồi muỗi…cũng thành tựu Thánh chủng hay sao? Vì thế cho nên Thánh chủng không thuộc về thiện do sinh mà có được.

Hỏi: Thánh chủng là do Văn-là do Tư hay là do Tu mà thành?

Đáp: Thâu nhiếp bao gồm cả ba loại.

Hỏi: Là thuộc về Ý địa, hay là thuộc về năm Thức? Đáp: Chỉ thuộc về Ý địa chứ không phải là năm Thức.

Có người nói: Cũng bao gồm năm Thức.

Lời bình: Không nên đưa ra cách nói ấy. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì thiện trong năm Thức chỉ là do sinh mà có được.

Hỏi: Nếu là thiện thuộc về gia hạnh, thì Tĩnh lự-Vô lượng-Vô sắc-Giải thoát-Thắng xứ-Biến xứ… mà ngoại đạo đã đạt được, cũng là Thánh chủng chăng?

Đáp: Đó không phải là Thánh chủng. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì nếu mừng vui hướng đến giải thoát mà chán ngán rời xa sinh tử, thì căn thiện ấy là Thánh chủng; sự vui mừng của ngoại đạo đều là sinh tử, cho nên căn thiện ấy không gọi là Thánh chủng.

Lại nữa, đối với quả báo và quả báo vốn có sinh niềm vui biết đủ, thì gọi là Thánh chủng; căn thiện của ngoại đạo cùng với điều này trái ngược nhau, cho nên không phải là Thánh chủng, bởi vì ngoại đạo Ngũ Đảnh… cũng cầu sinh lên cõi trời hưởng thụ dục lạc.

Lại nữa, Thánh chủng đều là căn thiện thuộc phẩm xuất gia, căn thiện của ngoại đạo đều là căn thiện thuộc phẩm tại gia, cho nên không phải là Thánh chủng.

Hỏi: Ít ham muốn-vui biết đủ đều đối trị với tham, lấy không tham làm tánh, vì sao vui biết đủ lập làm Thánh chủng chứ không phải là ít ham muốn?

Đáp: Tên gọi của ít ham muốn có lỗi lầm, có tăng thêm; vui biết đủ thì không như vậy. Có lỗi lầm là bởi vì chỉ nói ít ham muốn chứ không nói là không có ham muốn. Có tăng thêm là bởi vì đối với thật sự không có ham muốn mà gọi là ít ham muốn. Ở trong vui biết đủ không có sự việc như vậy, cho nên lập làm Thánh chủng.

Có người nói: Ít ham muốn đối với sự việc chưa đạt được ở vị lai mà chuyển, vui biết đủ đối với sự việc đã đạt được ở hiện tại mà chuyển. Không giữ lấy một đồng tiền (Ca-lũ-sa-bát-noa) ở hiện tại là khó, chứ không phải là đối với vị lai; địa vị Chuyển Luân Vương bởi vì khó mà vui biết đủ, cho nên lập làm Thánh chủng.

Có người nói: Bởi vì khác với ngoại đạo, cho nên không nói ít ham muốn là Thánh chủng. Nếu nói ít ham muốn là Thánh chủng, thì các hàng ngoại đạo sẽ dấy lên nói rằng: Chúng tôi thật sự là người trú trong Thánh chủng. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì các ông hãy còn mặc áo cũ rách mà chúng tôi trần truồng không có áo, các ông hãy còn khất thực để tự nuôi sống mình mà chúng tôi phần nhiều tự nhịn đói không ăn, các ông hãy còn ngồi dưới tán cây mà chúng tôi hoặc là thường đưa tay-co chân để đứng, vì thế cho nên chúng tôi thật sự gọi là người trú trong Thánh chủng. Bởi vì ngăn chặn điều ấy, cho nên chỉ nói vui biết đủ làm Thánh chủng, ngoại đạo không vui biết đủ đối với quả báo và quả báo vốn có.

Hỏi: Ít ham muốn và vui biết đủ có gì sai biệt?

Đáp: Có người nói: Ít ham muốn chỉ thuộc về Ý địa, vui biết đủ bao gồm sáu Thức thân.

Có người nói: Ít ham muốn chỉ riêng ở cõi Dục, vui biết đủ bao gồm ở cõi Dục-Sắc.

Có người nói: Ít ham muốn chỉ riêng ở cõi Dục-Sắc, vui biết đủ bao gồm ở ba cõi.

Có người nói: Ít ham muốn rơi vào ba cõi, vui biết đủ hệ thuộc ba cõi và không hệ thuộc.

Nói như vậy thì ít ham muốn và vui biết đủ đều bao gồm hệ thuộc ba cõi và không hệ thuộc.

Hỏi: Nếu như vậy thì đâu sai biệt?

Đáp: Ít ham muốn đối với sự việc chưa đạt được ở vị lai mà chuyển, vui biết đủ đối với sự việc đã đạt được ở hiện tại mà chuyển. Đó gọi là sai biệt.

Hỏi: Bệnh duyên-thuốc thang mà sinh niềm vui biết đủ, vì sao không nói là Thánh chủng?

Đáp: Cũng cần phải nói là Thánh chủng mà không nói, thì nên biết là có khác.

Có người nói: Đã thâu nhiếp ở trong phần trước đã nói, đó là bệnh duyên-thuốc thang có hai loại: 1-Có thể ăn; 2-Không có thể ăn. Có thể ăn, là thâu nhiếp trong ăn uống. Không có thể ăn, là thâu nhiếp trong áo quần-đồ nằm.

Có người nói: Bởi vì muốn lợi ích cho Tỳ kheo bệnh tật, cho nên không nói vui biết đủ đối với thuốc thang là Thánh chủng. Nghĩa là có Tỳ kheo tuy thân thể có bệnh tật, mà bởi vì ít làm việc cho nên không mong cầu thuốc thang chữa trị, nếu Đức Phật thiết lập loại này làm Thánh chủng, thì vị ấy giữ lấy bệnh tật không có thể chịu khó tu tập gia hạnh của Thánh đạo, bởi vì làm lợi ích cho vị ấy, khiến chịu khó tu đạo, cho nên không nói loại ấy làm Thánh chủng.

Có người nói: Nếu lúc thọ dụng có thể sinh tâm buông lung, thì vui biết đủ đối với điều ấy lập làm Thánh chủng; bệnh duyên-thuốc thang đối với lúc thọ dụng, chỉ có thể trừ bệnh chứ không tăng thêm buông lung, vì thế cho nên không nói.

Có người nói: Nếu thọ dụng ở tất cả mọi nơi, tất cả mọi người, tất cả mọi lúc, thì vui biết đủ đối với điều ấy lập làm Thánh chủng; bệnh duyên-thuốc thang không phải là có sự thọ dụng tất cả như vậy, cho nên vui biết đủ đối với điều ấy không lập làm Thánh chủng.

Vì vậy Tôn giả Bạc-cử-la nói: “Tôi xuất gia ở trong Phật pháp hơn tám mươi năm, không hề nhớ thân mình có bệnh tật gì thậm chí là đau đầu, cũng không nhớ thọ dụng thuốc thang bởi vì bệnh duyên thậm chí là quả Ha-lê-đát-kê. Người sinh ở cõi Dục còn như vậy, huống gì sinh ở cõi Sắc-Vô sắc hay sao?”

Hỏi: Vì sao luật nghi Biệt giải thoát chỉ riêng Vô biểu lập làm Thánh chủng chứ không phải là Biểu?

Đáp: Trước đây nói nối tiếp nhau không đoạn dứt gọi là Thánh chủng, Biểu không phải là nối tiếp nhau không đoạn dứt, vì thế cho nên không nói.

Có người nói: Vô biểu có thể đi cùng với Thánh đạo, cho nên lập làm Thánh chủng; Biểu không đi cùng với Thánh đạo, vì thế cho nên không nói.

Người xuất gia có bốn Thánh chủng, người tại gia cũng có bốn Thánh chủng.

Nhưng người xuất gia, bởi vì hai nhân duyên cho nên gọi là có Thánh chủng:

  1. Bởi vì ý thích.
  2. Bởi vì thọ dụng.

Những người tại gia, bởi vì một nhân duyên cho nên gọi là có Thánh chủng, đó là bởi vì ý thích chứ không phải là bởi vì thọ dụng. Như Thiên Đế Thích ở nơi chỗ ngồi bằng hoa tuyệt diệu, có mười hai Na-dữu-đa Thiên nữ hầu hạ vây quanh, dùng sáu vạn loại âm nhạc để tự mình vui đùa tùy thích, đối với bốn Thánh chủng luôn luôn có ý thích mà không có thọ dụng; các Quốc vương như Tần-tỳ-sa-la…, các Trưởng giả như Tô-đạt-đa…, cũng như vậy.

Hỏi: Vì có mỗi một loại Thánh chủng thì gọi là người trú trong Thánh chủng chăng?

Đáp: Không phải như vậy, cần phải có đủ bốn loại thì mới gọi là người trú trong Thánh chủng. Nhưng lúc đạt được một Thánh chủng, thì chắc chắn đạt được đầy đủ bốn loại; như Vô ngại giải đạt được một loại, thì chắc chắn có đủ bốn loại.

Chư Phật quá khứ đều khen ngợi về y cũ rách (phấn tảo) mà không cho phép mặc, nay Đức Phật Thích-ca cũng khen ngợi về y cũ rách mà lại cho phép mặc.

Hỏi: Vì sao như vậy?

Đáp: Bởi vì thời quá khứ, tâm tham của con người không nhiều, cho nên tuy có được áo quần trị giá trăm ngàn đồng tiền, mà tâm nhiễm trước không bằng người thời nay nhiễm trước đối với áo quần bình thường.

Có người nói: Bởi vì thời ấy mọi người dồi dào về tiền của châu báu, cho nên các hàng Tỳ kheo mong cầu áo quần trị giá trăm ngàn đồng tiền, còn dễ dàng hơn thời nay cầu áo quần cũ rách.

Tôn giả Thế Hữu nói rằng: “Thời quá khứ, ý thích của con người rộng lớn, thấy các Tỳ kheo cất giữ vật dụng sinh hoạt tuyệt vời bậc nhất, thì sinh tâm hoan hỷ tin tưởng cung kính; thời bây giờ, ý thích của con người nhỏ hẹp, nếu thấy Tỳ kheo cất giữ vật dụng sinh hoạt thô thiển xấu xí, thì mới sinh tâm hoan hỷ tin tưởng cung kính.”

Tôn giả Giác Thiên nói rằng: “Thời xưa kia, thân thể con người mịn màng mềm mại, nếu sử dụng đồ vật thô thiển xấu xí thì không có thể tự nhiên tồn tại; thời bây giờ, thân thể con người kệch cỡm cứng cỏi, tuy sử dụng đồ vật thô thiển xấu xí mà có thể tự nhiên tồn tại.”

Đại đức nói rằng: “Chư Phật quá khứ khen ngợi về y cũ rách, nên biết chính là cũng cho phép sử dụng. Nếu không như vậy thì tại sao khen ngợi? Bởi vì chư Phật không lấy sự việc không có mà nói cho có.”

Như Đức Thế Tôn nói: “Y cũ rách thì ít-dễ có được-không có tội.”

Hỏi: Thế nào là ít? Thế nào là dễ có được? Thế nào là không có tội?

Đáp: Tôn giả Thế Hữu nói rằng: “Bởi vì ít dụng công mà làm được, không phải là nhiều người sử dụng, cho nên gọi là ít; tùy theo mọi lúc-mọi nơi đều có thể có được, cho nên gọi là dễ có được; bởi vì Đức Phật đã cho phép, bởi vì người trí sử dụng, cho nên gọi là không có tội.”

Đại đức nói rằng: “Ít giá trị cho nên gọi là ít; không mong cầu từ người khác, cho nên gọi là dễ có được; không có thâu nhiếp tiếp nhận, cho nên gọi là không có tội.”

Bởi vì hai nhân duyên, cho nên Đức Phật nói vui biết đủ đối với áo quần là Thánh chủng:

  1. Bởi vì quở trách không vui biết đủ đối với áo quần, như Nanđà…
  2. Bởi vì khen ngợi vui biết đủ đối với áo quần, như Đại Ca-diếpba…

Bởi vì hai nhân duyên, cho nên Đức Phật nói vui biết đủ đối với ăn uống là Thánh chủng:

  1. Bởi vì quở trách không vui biết đủ đối với ăn uống, như Bà-đàlê…
  2. Bởi vì khen ngợi vui biết đủ đối với ăn uống, như Bạc-cử-la…

Bởi vì hai nhân duyên, cho nên Đức Phật nói vui biết đủ đối với đồ nằm là Thánh chủng:

1. Bởi vì quở trách không vui biết đủ đối với đồ nằm, như Tỳ kheo Ngu Vương…, như trong kinh nói: “Tỳ kheo Ngu Vương thưa với Đức Phật rằng: Chỉ mong Đức Thế Tôn nhìn cho giường ghế của con thô thiển xấu xí như vậy!”.

2. Bởi vì khen ngợi vui biết đủ đối với đồ nằm, như Hiệt-lệ-phiệt- đa…

Bởi vì hai nhân duyên, cho nên Đức Phật nói vui với Đoạn-vui với Tu là Thánh chủng:

  1. Bởi vì quở trách lười nhác, như Xiển-đà…
  2. Bởi vì khen ngợi tinh tiến, như Thất-lộ-noa…

Do bốn nhân duyên mà biết đó là Bổ-đặc-già-la an trú trong Thánh chủng:

  1. Không thích nghe người khác nói đến có được lợi dưỡng.
  2. Không thích gần gũi với người tham thức ăn ngon.
  3. Đồ vật sinh hoạt đã cất giữ ít mà thanh tịnh, không sinh tâm nhiễm trước.
  4. Đối với những lợi dưỡng có được và không có được, không sinh tâm yêu-ghét.

Như Đức Thế Tôn nói: “Bốn Thánh chủng này là sự nhận biết thù thắng nhất, là sự nhận biết về chủng tánh, là sự nhận biết đáng vui thích, là pháp không có tạp nhiễm, không có thể quở trách. Tất cả thế gian hoặc là Sa-môn, hoặc là Bà-la-môn, hoặc là trời, hoặc là ma, hoặc là Phạm, hoặc là thế gian khác, không có ai có thể như pháp nói về lỗi của Thánh chủng ấy.”

Hỏi: Thế nào gọi là sự nhận biết thù thắng nhất?

Đáp: Có người nói: Bởi vì bốn Thánh chủng này có thể dẫn dắt thù thắng nhất, đạt được quả thù thắng nhất, hướng đến nơi thù thắng nhất, tùy thuận thù thắng nhất, cho nên gọi là thù thắng nhất; do Đức Phật đã thi thiết, do Đức Phật đã nhận biết, cho nên gọi là sự nhận biết.

Có người nói: Đức Phật nói năm trăm Thanh văn đều có pháp thù thắng nhất, bốn loại này rơi vào trong pháp thù thắng nhất ấy, cho nên gọi là thù thắng nhất; Đức Phật nhận biết bốn loại này là niềm vui biết đủ chân thật, cho nên gọi là sự nhận biết.

Có người nói: Đức Phật và đệ tử gọi là những bậc thù thắng nhất, sự khen ngợi rõ ràng của những bậc ấy gọi là sự nhận biết thù thắng nhất.

Có người nói: Đức Phật nhận biết bốn loại này là kho báu thù thắng, có thể khiến cho trú vào đó thì thỏa mãn được ý mong cầu, cho nên gọi là sự nhận biết thù thắng nhất. Nghĩa là các hữu tình phần nhiều không thỏa mãn được ý mong cầu mà chết, chỉ có trú trong Thánh chủng thì không có ai không thỏa mãn được ý mong cầu mà chết.

Có người nói: Đức Phật nhận biết bốn loại này là kho tàng vô tận, giúp cho những người trí sử dụng không hề vơi cạn. Nghĩa là trú trong pháp này thì không cần phải mong cầu nhiều và tích tụ nhiều, cũng không có khóa cửa-cài then-canh giữ, tùy ý sử dụng suốt đời không hề có vơi cạn; như Chuyển Luân Vương làm vua cai quản bốn châu thế giới, tiền của châu báu đã sử dụng có thể mau chóng vơi cạn, sử dụng bốn loại này mà không hề có vơi cạn.

Hỏi: Thế nào gọi là sự nhận biết về chủng tánh?

Đáp: Hằng hà sa số chư Phật và đệ tử của Phật đều từ pháp này sinh ra, cho nên gọi là chủng tánh; người trí đã hiểu rõ về pháp này, cho nên gọi là nhận biết.

Có người nói: Chủng tánh là nghĩa của năng lực duy trì, nghĩa là có năng lực giữ vững Thánh giáo khiến cho lâu dài không diệt mất, cho nên gọi là chủng tánh; là do Đức Phật đã hiểu rõ, cho nên gọi là nhận biết.

Hỏi: Thế nào gọi là sự nhận biết đáng vui thích?

Đáp: Bốn loại này là niềm vui thích của người trí, là sự nhận biết của người trí, cho nên gọi là sự nhận biết đáng vui thích.

Có người nói: Đức Phật nhận biết bốn loại này đều có năng lực hỗ trợ cho vui với Đoạn-vui với Tu, cho nên gọi là sự nhận biết đáng vui thích.

Có người nói: Đức Phật nhận biết bốn loại này là ở trong ngày đêm suốt sáu thời, người trí tùy theo sự yêu thích an trú mà không hề lười nhác mệt mỏi, cho nên gọi là sự nhận biết đáng vui thích.

Có người nói: Đức Phật nhận biết bốn loại này là niềm vui an trú lâu dài của người tu hành, nghĩa là từ đêm khuya hôm nay ngồi xếp bằng tròn, an trú trong đó cho đến buổi sáng hôm sau, duyên khác làm cho mất đi thì mới từ trong đó đứng dậy.

Hỏi: Thế nào gọi là pháp không có tạp nhiễm?

Đáp: Bởi vì bốn Thánh chủng này không bị phiền não-ác nghiệp làm cho lẫn tạp.

Hỏi: Thế nào gọi là không có thể quở trách?

Đáp: Nếu trú trong bốn loại này, thì luôn luôn được khen ngợi là người trú trong Chánh pháp, chứ chưa hề bị quở trách. Cũng chính vì vậy cho nên tất cả thế gian hoặc là Sa-môn, hoặc là Bà-la-môn, hoặc là trời, hoặc là ma, hoặc là Phạm, hoặc là thế gian khác, không có ai có thể như pháp nói về lỗi của Thánh chủng ấy.

Tôn giả Thế Hữu đưa ra cách nói như vậy: “Đức Phật nhận biết bốn loại này có thể tiến vào Thánh thai, cho nên gọi là sự nhận biết thù thắng nhất. Tất cả Thánh giả đều từ pháp này sinh ra, cho nên gọi là sự nhận biết về chủng tánh. Là niềm vui ngày đêm của người tu hành, cho nên gọi là sự nhận biết đáng vui thích. Xa lìa bốn loại sự nghiệp của thế gian, cho nên gọi là pháp không có tạp nhiễm, bốn loại sự nghiệp đó là ruộng đất-buôn bán-thuê mướn-tự tại. Tất cả công đức nhờ vào đây mà đầy đủ, cho nên gọi là không có thể quở trách. Đối với mình-đối với người đều không có sự tổn hại, cho nên tất cả thế gian hoặc là Sa-môn, hoặc là Bà-la-môn, hoặc là trời, hoặc là ma, hoặc là Phạm, hoặc là thế gian khác, không có ai có thể như pháp nói về lỗi của Thánh chủng ấy.”

Như Đức Thế Tôn ở trong kinh nói bài kệ rằng:

“Các hữu tình điều phục yêu-ghét,
Thường xuyên ở bên cạnh đồ nằm,
Luôn luôn an trú không buông lung,
Loại bỏ hết tùy miên Hữu tham.”

Hỏi: Trong bài kệ này là phân rõ về nghĩa gì?

Đáp: Yêu gọi là tham ái, ghét gọi là tắng nhuế. Đệ tử hàng Thánh của Đức Phật, nếu điều phục được hai loại này, thì ở bên cạnh đồ nằm, an trú không buông lung, vẫn có thể vĩnh viễn loại bỏ hết tùy miên Hữu tham.

Lại nữa, nếu ở trong Tỳ-nại-da Chánh pháp, thuận theo tâm đắm vào yêu thích (vị trước) đối với pháp có được mà chuyển, thì gọi là Ái; tâm lo buồn đối với pháp chưa có được mà chuyển thì gọi là Tắng. Đệ tử hàng Thánh của Đức Phật không yêu thích đối với pháp đã có được, không lo buồn đối với pháp chưa có được, cho nên có thể điều phục cả hai loại. Bởi vì điều phục cả hai loại, cho nên ở bên cạnh đồ nằm, an trú không buông lung, thì có thể vĩnh viễn loại bỏ hết tùy miên Hữu tham.

Lại nữa, nếu đối với áo quần-ăn uống tuyệt vời bậc nhất mà tham

lam mong cầu thì gọi là Ái, nếu đối với áo quần-ăn uống thô thiển xấu xí mà ghét bỏ chê bai thì gọi là Tắng. Đệ tử hàng Thánh của Đức Phật có thể điều phục cả hai loại. Câu này hiển bày rõ ràng về Thánh chủng vui biết đủ đối với áo quần-ăn uống, câu thứ hai hiển bày rõ ràng về Thánh chủng vui biết đủ đối với đồ nằm, hai câu sau hiển bày rõ ràng về Thánh chủng vui với Đoạn-vui với Tu.

Hỏi: Vui với Đoạn-vui với Tu có gì sai biệt?

Đáp: Vui với Đoạn là đoạn bỏ phiền não, vui với Tu là tu tập Thánh đạo.

Lại nữa, đạo vô gián gọi là vui với Đoạn, đạo giải thoát gọi là vui với Tu.

Lại nữa, Kiến đạo gọi là vui với Đoạn, Tu đạo gọi là vui với Tu. Như Kiến đạo-Tu đạo, như vậy Kiến địa-Tu địa, Vị tri đương tri căn-Dĩ tri căn, nên biết cũng như vậy.

Lại nữa, vui với Đoạn là hiển bày về các Nhẫn, vui với Tu là hiển bày về các Trí. Đó gọi là sự sai biệt giữa vui với Đoạn-vui với Tu.

Như nói: “Này Đại Danh, Học trú nhiều trong năm Cái từ từ đoạn…”

Hỏi: Vì sao soạn ra phần luận này?

Đáp: Bởi vì muốn phân biệt nghĩa lý trong kinh. Như trong kinh nói: “Đức Phật bảo với Đại Danh: Học trú nhiều trong năm Cái từ từ đoạn.” Trong kinh tuy nói ra điều này mà không phân biệt thế nào là Học, thế nào là Học trú nhiều trong năm Cái từ từ đoạn? Kinh ấy là nơi nương tựa căn bản của luận này, điều gì trong kinh chưa giải thích, thì nay cần phải giải thích, cho nên soạn ra phần luận này.

Như nói: “Này Đại Danh, Học trú nhiều trong năm Cái từ từ đoạn.”

Hỏi: Trong này thế nào là Học?

Đáp: Dự lưu, hoặc là Nhất lai.

Hỏi: Thế nào là Học trú nhiều trong năm Cái từ từ đoạn?

Đáp: Từ từ đoạn, từ từ lìa, từ từ điều phục, từ từ rời bỏ.

Hỏi: Vì sao trong này không nói Tùy tín hành-Tùy pháp hành gọi là Học trú nhiều trong năm Cái từ từ đoạn?

Đáp: Cần phải nói mà không nói, thì nên biết là nghĩa này có khác.

Có người nói: Tùy tín hành-Tùy pháp hành có người trú trong năm Cái đã đoạn, có người trú trong năm Cái từ từ đoạn, bởi vì không nhất định cho nên không nói; Dự lưu-Nhất lai thì không như vậy, quyết định chỉ có trú trong năm Cái từ từ đoạn, vì vậy nói đến.

Có người nói: Nếu trong thân ấy phiền não của năm Cái có thể hiện hành mà từ từ đoạn, thì trong này nói đến; Tùy tín hành-Tùy pháp hành thì tâm thiện hữu lậu-tâm vô phú vô ký hãy còn không có thể hiện hành, huống gì là phiền não? Vì thế cho nên không nói đến.

Hỏi: Trong thân Dự lưu-Nhất lai thì Cái nghi đã đoạn, Ác tác tuy chưa đoạn mà lại không hiện hành, vì sao nói là Học trú nhiều trong năm Cái từ từ đoạn, mà lại nói là có thể hiện hành?

Đáp: Văn trước nên đưa ra cách nói này: Học trú nhiều trong các Cái từ từ đoạn. Không nên nói là năm, mà nói là năm bởi vì sự việc có năm, đó là Tham dục-Sân nhuế-Thụy miên-Hôn trầm-Trạo cử.

Có người nói: Trước đoạn-nay đoạn, nói chung là đoạn năm loại; như nói đoạn năm kiết thuận phần dưới đạt được quả Bất hoàn. Trú nhiều, đó là thường xuyên trú vào.

Hỏi: Đoạn-lìa-điều phục-rời bỏ, có gì sai biệt?

Đáp: Có người nói: Không có gì sai biệt, bởi vì cùng hiển bày về đoạn.

Có người nói: Cũng có sai biệt, đó là đoạn dứt sự ràng buộc ấy cho nên gọi là đoạn, lìa bỏ sự mang lấy ấy cho nên gọi là lìa, khiến cho không hiện hành cho nên gọi là điều phục, chán ngán trái với điều ấy cho nên gọi là rời bỏ.

Lại nữa, dựa vào đạo vô gián nói là đoạn, dựa vào đạo giải thoát nói là lìa, hai loại này dựa vào vĩnh viễn đoạn mà nói; dựa vào gia hạnh gần nói là điều phục, dựa vào gia hạnh xa nói là rời bỏ, hai loại này dựa vào tạm thời đoạn mà nói.

Lại nữa, dựa vào đạo vô gián nói là đoạn, dựa vào đạo giải thoát nói là lìa, hai loại này dựa vào chính thức đoạn mà nói; dựa vào đạo gia hạnh nói là điều phục, dựa vào đạo thắng tiến nói là rời bỏ, hai loại này dựa vào hỗ trợ đoạn mà nói.

Lại nữa, đoạn là dựa vào đối trị về đoạn dứt mà nói, lìa là dựa vào đối trị về duy trì mà nói, điều phục là dựa vào đối trị về phần xa mà nói, rời bỏ là dựa vào đối trị về chán ngán hư hoại mà nói. Đó gọi là sự sai biệt của đoạn-lìa-điều phục-rời bỏ.

Như nói: “Tỳ kheo bởi vì San-độ-sa đối với Pháp cho nên Sanđộ-sa đối với Tỳ-nại-da, bởi vì San-độ-sa đối với Tỳ-nại-da cho nên San-độ-sa đối với Pháp…” Cho đến nói rộng ra.

Hỏi: Vì sao soạn ra phần luận này?

Đáp: Bởi vì muốn phân biệt nghĩa lý trong kinh. Như trong kinh nói: “Vị lai có các Tỳ kheo không tu Thân giới-Tâm tuệ, họ không tu Thân giới-Tâm tuệ là bởi vì San-độ-sa đối với Pháp…” Trong kinh tuy nói ra điều này mà không phân biệt, thế nào là Pháp, thế nào là Tỳ-nạida, thế nào là bởi vì San-độ-sa đối với Pháp? Cho đến nói rộng ra. Kinh ấy là nơi nương tựa căn bản của luận này, điều gì trong kinh không giải thích, thì nay cần phải giải thích, cho nên soạn ra phần luận này.

Hỏi: Thế nào là Pháp?

Đáp: Tám chi Thánh đạo.

Hỏi: Thế nào là Tỳ-nại-da?

Đáp: Diệt tham-sân-si.

Hỏi: Thế nào là bởi vì San-độ-sa đối với Pháp cho nên San-độ-sa đối với Tỳ-nại-da, bởi vì San-độ-sa đối với Tỳ-nại-da cho nên San-độsa đối với Pháp?

Đáp: Nếu lúc không tu tập đối với tám chi Thánh đạo, thì lúc ấy không có thể tác chứng đối với diệt tham-sân-si; nếu lúc không tác chứng đối với diệt tham-sân-si, thì lúc ấy không có thể tu tập đối với tám chi Thánh đạo. Bởi vì nhân duyên này, cho nên đưa ra cách nói này.

Trong này, chữ San-độ-sa, có người nói là hiển bày về vui biết đủ, có người nói là hiển bày về sự hủy hoại.

Nếu nói là hiển bày về vui biết đủ, thì đó là nói: Thế nào là bởi vì San-độ-sa đối với Pháp cho nên San-độ-sa đối với Tỳ-nại-da? Đó là bởi vì sinh ra niềm vui biết đủ đối với Kiến đạo, cho nên sẽ không có thể tu tập đối với Tu đạo; nếu lúc không tu tập đối với Tu đạo thì không có thể tác chứng đối với đoạn phiền não do Tu mà đoạn. Như vậy, bởi vì San-độ-sa đối với Pháp cho nên San-độ-sa đối với Tỳ-nại-da. Thế nào là bởi vì San-độ-sa đối với Tỳ-nại-da cho nên San-độ-sa đối với Pháp? Đó là bởi vì sinh ra niềm vui biết đủ đối với đoạn phiền não do Kiến mà đoạn, cho nên sẽ không có thể tác chứng đối với đoạn phiền não do Tu mà đoạn; nếu lúc không tác chứng đối với đoạn phiền não do Tu mà đoạn, thì không có thể tu tập đối với Tu đạo. Như vậy, bởi vì San-độ-sa đối với Tỳ-nại-da cho nên San-độ-sa đối với Pháp.

Nếu nói là hiển bày về sựu hủy hoại, thì đó là nói: Bởi vì hủy hoại Thánh đạo, cho nên không có thể tác chứng đối với diệt tham-sân-si, vì vậy nói là bởi vì San-độ-sa đối với Pháp cho nên San-độ-sa đối với Tỳnại-da. Bởi vì hủy hoại về diệt tham-sân-si, cho nên sẽ không có thể tu tập đối với Thánh đạo, vì vậy nói là bởi vì San-độ-sa đối với Tỳ-nại-da cho nên San-độ-sa đối với Pháp.

Hỏi: Thánh đạo và Diệt không có sai lầm, không có thể hủy hoại, làm sao nói là hủy hoại Thánh đạo và Diệt?

Đáp: Hủy hoại sự nối tiếp nhau của pháp ấy mà nói là hủy hoại pháp ấy, không phải là tự Thể của pháp ấy thật sự có thể hủy hoại, nghĩa là do phiền não hiện rõ ở trước mắt mà hủy hoại sự nối tiếp nhau, do hủy hoại sự nối tiếp nhau mà khiến Thánh đạo chuyển ra xa, do Thánh đạo chuyển ra xa cho nên không có thể tác chứng đối với diệt tham-sânsi, vì vậy nói là hủy hoại.

Như trong kinh nói: “Đây là Pháp, đây là Tỳ-nại-da, đây là lời dạy của bậc Đại Sư.”

Hỏi: Ba pháp này có gì sai biệt?

Đáp: Pháp gọi là tám chi Thánh đạo, Tỳ-nại-da gọi là diệt thamsân-si, lời dạy của bậc Đại Sư gọi là lời của Đức Phật.

Có người nói: Pháp gọi là tạng A-tỳ-đạt-ma, Tỳ-nại-da gọi là tạng Tỳ-nại-da, lời dạy của bậc Đại Sư gọi là tạng Tố-đát-lãm. Đó gọi là sự sai biệt của ba pháp này.

Như nói: “Pháp tùy pháp hành…” Cho đến nói rộng ra.

Hỏi: Vì sao soạn ra phần luận này?

Đáp: Bởi vì muốn phân biệt nghĩa lý trong kinh. Như trong kinh nói: “Pháp tùy pháp hành.” Trong kinh tuy nói ra điều này mà không phân biệt thế nào là pháp, thế nào là tùy pháp, thế nào là pháp tùy pháp hành? Kinh là nơi nương tựa căn bản của luận này, điều gì trong kinh không giải thích, thì nay cần phải giải thích, cho nên soạn ra phần luận này.

Hỏi: Thế nào là pháp?

Đáp: Tịch diệt Niết-bàn.

Hỏi: Thế nào là tùy pháp?

Đáp: Tám chi Thánh đạo.

Hỏi: Thế nào là pháp tùy pháp hành?

Đáp: Nếu ở trong pháp này thuận theo nghĩa mà thực hành, đó gọi là vì cầu Niết-bàn mà tu tập tám chi Thánh đạo, cho nên gọi là pháp tùy pháp hành; là có thể an trú trong pháp này, thì gọi là pháp tùy pháp hành.

Hỏi: Vì sao chỉ riêng Niết-bàn gọi là pháp, tám chi Thánh đạo gọi là tùy pháp?

Đáp: Bởi vì Niết-bàn là pháp thù thắng ở trong các pháp, sinhgià-bệnh-chết không có thể xâm nhập, cho nên chỉ riêng Niết-bàn được gọi là pháp; tám chi Thánh đạo tiếp theo pháp ấy, thuận theo pháp ấy, như Quốc vương với Đại thần, cho nên gọi là tùy pháp.

Vì vậy trong kinh nói: “Niết-bàn là pháp thù thắng nhất trong tất cả các pháp, Thánh đạo thù thắng nhất trong pháp hữu vi.”

Nhưng trong kinh Xá-lợi-tử Tán Học nói rằng: “Pháp của Tỳ kheo là tùy pháp, đó gọi là Ly hệ.” Trong kinh ấy nói Thánh đạo gọi là pháp, Niết-bàn gọi là tùy pháp, bởi vì trước phái đạt được Thánh đạo, sau mới chứng Niết-bàn. Kinh trước dựa vào sự hơn-kém theo thứ tự hiển bày về pháp-tùy pháp, kinh sau dựa vào sự chứng đắc theo thứ tự hiển bày về pháp-tùy pháp.

Lại nữa, Biệt giải thoát gọi là pháp, luật nghi Biệt giải thoát gọi là tùy pháp. Nếu ở trong pháp này thuận theo nghĩa mà thực hành thì gọi là pháp tùy pháp hành, đó là bởi vì cầu Biệt giải thoát cho nên thọ luật nghi Biệt giải thoát, đạt được rồi thuận theo bảo vệ không hề có hủy phạm thì gọi là pháp tùy pháp hành, có thể an trú trong pháp này thì gọi là pháp tùy pháp hành.

Lại nữa, Thân luật nghi-Ngữ luật nghi-Mạng thanh tịnh gọi là pháp, thọ pháp này gọi là tùy pháp. Nếu ở trong pháp này thuận theo nghĩa mà thực hành thì gọi là pháp tùy pháp hành, đó là bởi vì cầu Thân luật nghi-Ngữ luật nghi-Mạng thanh tịnh cho nên thọ, và thọ rồi thuận theo bảo vệ thì gọi là pháp tùy pháp hành, có thể an trú trong pháp này thì gọi là pháp tùy pháp hành.

Hỏi: Thân luật nghi-Ngữ luật nghi-Mạng thanh tịnh tức là do luật nghi Biệt giải thoát thâu nhiếp, vì sao còn nói lại?

Đáp: Trước là nói không phân biệt, nay là nói phân biệt; trước là nói tổng quát, nay là nói riêng biệt.

Có người nói: Trước là do luật nghi thâu nhiếp, do hành diệu thâu nhiếp, không phải là do rời xa luật nghi thâu nhiếp; nay là do luật nghi thâu nhiếp, do hành diệu thâu nhiếp, cũng do rời xa luật nghi thâu nhiếp.

Có người nói: Trước hiển bày rõ ràng về thụ động phát khởi, nay hiển bày rõ ràng về chủ động phát khởi; trước vì bảo vệ thụ động phát khởi cho nên bảo vệ chủ động phát khởi, nay vì bảo vệ chủ động phát khởi cho nên bảo vệ thụ động phát khởi.

Có người nói: Trước vì bảo vệ đối với quả cho nên thuận theo bảo vệ đối với nhân, nay vì bảo vệ đối với nhân cho nên thuận theo bảo vệ đối với quả. Như nhân-quả, chủ động tạo tác-thụ động tạo tác cũng như vậy.

Trong này, Biểu của giới Biệt giải thoát và Vô biểu của niệm đầu

tiên, là Thi-la, là luật nghi, là hành diệu, là Bát-la-để-mộc-xoa, là luật nghi của Bát-la-để-mộc-xoa, là nghiệp, là nghiệp đạo; sau Vô biểu này là Thi-la, là luật nghi, là hành diệu, là luật nghi của Bát-la-để-mộc-xoa, không phải là Bát-la-để-mộc-xoa, bởi vì không phải là giải thoát đầu tiên, là nghiệp chứ không phải là nghiệp đạo, bởi vì Tư đến cuối cùng không chuyển ở nơi này.

Như nói: “Này Tỳ kheo, nay Ta sẽ nói về Bát-la-để-mộc-xoa, các Thầy lắng nghe kỹ càng!”

Hỏi: Trong này, pháp gì gọi là Bát-la-để-mộc-xoa, là Thi-la, hay là lời nói của người thuyết giới? Nếu là Thi-la thì pháp ấy không có thể nói, vì sao nói là Ta sẽ nói về Bát-la-để-mộc-xoa? Nếu là lời nói của người thuyết giới, thì lúc ấy hoặc là tâm thiện mà nói, hoặc là tâm bất thiện-vô ký mà nói, trong Tỳ-nại-da nói nên hiểu thế nào? Như nói: “Bát-la-để-mộc-xoa là pháp đi trước-đứng đầu-cao nhất trong các pháp thiện.”

Đáp: Có người nói: Là Thi-la.

Hỏi: Thi-la là pháp không có thể nói, vì sao nói là Ta sẽ nói?

Đáp: Dựa vào nhân lần lượt chuyển đổi, cho nên gọi là nói; như pháp của con cháu, đó là lời nói có thể phát khởi tên gọi, tên gọi có thể hiển bày ý nghĩa. Có người nói: Là lời nói của người thuyết giới.

Hỏi: Lúc ấy hoặc là tâm thiện mà nói, hoặc là tâm bất thiện-vô ký mà nói, vì sao nói là pháp đi trước-đứng đầu-cao nhất trong các pháp thiện?

Đáp: Đó là Tỳ-nại-da dựa vào nhân không ngăn ngại, cho nên đưa ra cách nói này, nghĩa là người thuyết giới thuận theo tâm nào mà nói, nếu người nghe có thể tu hành như lời nói, thì đều có thể làm nhân không có ngăn ngại cho tất cả công đức ấy, cho nên nói Bát-la-để-mộcxoa là pháp đi trước-đứng đầu-cao nhất trong các pháp thiện.

*******

 

Thế nào là Pháp luân? Cho đến nói rộng ra.

Hỏi: Vì sao soạn ra phần luận này?

Đáp: Bởi vì muốn phân biệt nghĩa lý trong kinh. Như trong kinh nói: “Đức Thế Tôn chuyển Pháp luân, các hàng Sa-môn, Bà-la-môn, trời-ma-Phạm còn lại ở thế gian đều không có ai có năng lực như pháp mà Chuyển.” Trong kinh tuy nói ra điều này mà không phân biệt, thế nào là Pháp luân, đến đâu thì nên gọi là chuyển Pháp luân? Kinh là nơi nương tựa căn bản của luận này, điều gì trong kinh không giải thích, thì nay cần phải giải thích, cho nên soạn ra phần luận này.

Hỏi: Thế nào là Pháp luân?

Đáp: Tám chi Thánh đạo. Nếu bao gồm Tương ưng-Tùy chuyển thì tánh thuộc năm Uẩn. Đó là tự tánh của Pháp luân, là Ngã, là vật, là tướng, là tánh, là bổn tánh.

Đã nói về tự tánh, nay sẽ nói đến nguyên cớ.

Hỏi: Vì sao gọi là Pháp luân?

Đáp: Luân này là do pháp mà thành, lấy pháp làm tự tánh, cho nên gọi là Pháp luân. Như vòng vàng…của thế gian do vàng…mà làm thành, lấy vàng…làm tánh, gọi là vòng vàng…; ở đây cũng như vậy.

Có người nói: Luân này có thể lựa chọn đến cuối cùng lựa chọn, có thể giác ngộ đến cuối cùng giác ngộ, Hiện quán-tác chứng đối với tánh của các pháp, cho nên gọi là Pháp luân.

Có người nói: Luân này có thể thanh tịnh Pháp nhãn của Thánh tuệ, cho nên gọi là Pháp luân.

Có người nói: Luân này có thể sửa trị pháp luân sai trái, cho nên gọi là Pháp luân; pháp luân sai trái, đó là luân thuộc tám chi Tà do Lục Sư như Bố-lạt noa…đã chuyển.

Hỏi: Vì sao gọi là Luân, Luân là nghĩa gì?

Đáp: Nghĩa về chuyển động không dừng là nghĩa của Luân, nghĩa về rời bỏ nơi này hướng đến nơi kia là nghĩa của Luân, nghĩa về có năng lực làm cho kẻ địch phải khuất phục là nghĩa của Luân.

Như trong kinh Đại Tứ Thập Pháp Môn nói: “Có hai mươi phẩm thiện, hai mươi phẩm bất thiện, đây gọi là Phạm luân…”

Hỏi: Hai mươi phẩm thiện thì có thể như vậy, hai mươi phẩm bất thiện vì sao gọi là Phạm luân?

Đáp: Ý của Đức Phật không nói pháp ấy là Phạm luân, chỉ nói về Luân có Nhẫn-Trí đối với pháp thuộc phẩm thiện-bất thiện gọi là Phạm luân.

Hỏi: Pháp này vì sao gọi là Phạm?

Đáp: Bởi vì rất vắng lặng, xa rời tai họa bất ngờ, không có tội lỗi, không làm não hại, cho nên gọi là Phạm.

Hỏi: Vì sao gọi là Phạm luân?

Đáp: Bởi vì ở cõi Phạm Thế là nơi đầu tiên có thể đạt được và có đủ Thánh đạo, cho nên gọi là Phạm luân. Tĩnh lự thứ hai-thứ ba không phải là nơi đầu tiên đạt được, cũng không có đủ Thánh đạo. Tĩnh lự thứ tư chỉ là thân Phật đầu tiên đạt được mà không có đủ Thánh đạo, cho nên không gọi là Luân. Chỉ có cõi Phạm Thế là nơi đầu tiên có thể đạt được, và cũng đầy đủ Thánh đạo, cho nên gọi là Phạm luân.

Có người nói: Bởi vì có thể đạt được trong sự nối tiếp nhau của người tu Phạm hạnh, cho nên gọi là Phạm luân.

Có người nói: Bởi vì đối trị với phi phạm hạnh, cho nên gọi là Phạm luân.

Có người nói: Bởi vì đối trị với phiền não phi phạm hạnh do Kiến mà đoạn của ba cõi, cho nên gọi là Phạm luân.

Có người nói: Đây là nhờ Phạm Vương khuyến thỉnh mà chuyển, cho nên gọi là Phạm luân.

Có người nói: Đức Phật là bậc Đại Phạm, pháp do Đức Phật đã tuyên thuyết-phân biệt-khai thị, cho nên gọi là Phạm luân.

Có người nói: Pháp được tuyên thuyết bằng Phạm âm, cho nên gọi là Phạm luân.

Có người nói: Chỉ có Thánh đạo của cõi Phạm Thế mới có năng lực đối trị với rất nhiều pháp không phải là Phạm hạnh. Rất nhiều pháp không phải là Phạm hạnh, đó là phiền não do Kiến-Tu mà đoạn của ba cõi, hoặc là phiền não bất thiện-vô ký, hoặc là phiền não có dị thụckhông có dị thục, hoặc là phiền não sinh ra hai quả-sinh ra một quả, hoặc là phiền não tương ưng với không có Tàm-không có Quý, hoặc là phiền não không tương ưng với không có Tàm-không có Quý, hoặc là phiền não có sự-không có sự, hoặc là phiền não do Nhẫn mà đối trị-do Trí mà đối trị. Những phiền não như vậy gọi là rất nhiều pháp không phải là Phạm hạnh.

Có người nói: Bởi vì chỉ riêng cõi Phạm Thế có nhiều quả của Phạm hạnh, cho nên gọi là Phạm luân. Nhiều quả của Phạm hạnh, đó là bốn quả Sa-môn, ba Tĩnh lự trên chỉ có hai quả Sa-môn, Vô sắc chỉ có một quả Sa-môn, chỉ riêng trong cõi Phạm Thế có đủ bốn quả Sa-môn. Hoặc là chín quả Biến tri, ba Tĩnh lự trên chỉ có năm quả Biến tri, Vô sắc chỉ có hai quả Biến tri, chỉ riêng cõi Phạm Thế có đủ chín quả Biến tri. Hoặc là tám mươi chín quả Sa-môn, chỉ riêng cõi Phạm Thế có đủ chứ không phải là ở địa trên. Vì thế cho nên Thánh đạo gọi là Phạm luân.

Hỏi: Vì sao chỉ nói Kiến đạo gọi là Pháp luân chứ không phải là gì khác?

Đáp: Trước đây nói nghĩa về chuyển động không dừng là nghĩa của Luân, Kiến đạo là đạo nhanh chóng, đạo không khởi tâm mong mỏi, là đạo tùy thuận nhất đối với sự chuyển động không dừng, cho nên chỉ có Kiến đạo gọi là Pháp luân.

Có người nói: Trước đây nói nghĩa về rời bỏ nơi này hướng đến nơi kia là nghĩa của Luân, trong Kiến đạo rời bỏ Hiện quán về Khổ hướng đến Hiện quán về Tập, cho đến rời bỏ Hiện quán về Diệt hướng đến Hiện quán về Đạo, vì thế cho nên chỉ có Kiến đạo gọi là Pháp luân.

Có người nói: Bởi vì bốn sự việc cho nên gọi là Luân:

  1. Rời bỏ nơi này.
  2. Hướng đến nơi kia.
  3. Chưa hàng phục thì làm cho hàng phục.
  4. Đã hàng phục thì giữ gìn che chở.

Trong Kiến đạo cũng như vậy, rời bỏ nơi này là rời bỏ Hiện quán về Khổ, hướng đến nơi kia là hướng đến Hiện quán về Tập, chưa hàng phục thì làm cho hàng phục tức là Hiện quán về Tập, đã hàng phục thì giữ gìn che chở tức là Hiện quán về Khổ, cho đến Diệt-Đạo nói cũng như vậy, cho nên gọi là Pháp luân.

Có người nói: Nghĩa về xoay tròn là nghĩa của Luân, giống như bánh xe xoay tròn liên tục. Như vậy, Nhẫn-Trí trong Kiến đạo xoay tròn liên tục, nghĩa là sau Nhẫn thì Trí hiện rõ ở trước mắt, sau Trí thì Nhẫn hiện rõ ở trước mắt, phẩm Pháp-phẩm Loại xoay tròn liên tục cũng như vậy, cho nên gọi là Pháp luân.

Có người nói: Nghĩa về trên-dưới là nghĩa của Luân, giống như bánh xe lúc phía trên-lúc phía dưới. Như vậy, Kiến đạo duyên với cảnh trên-cảnh dưới, nghĩa là duyên với cõi Dục rồi liền duyên với Hữu Đảnh, duyên với Hữu Đảnh rồi lại duyên với cõi Dục, đối trị trên-dưới nói cũng như vậy, cho nên gọi là Pháp luân.

Có người nói: Kiến đạo giống như pháp của nan hoa-ổ trục-vành bánh xe, cho nên nói là Luân; giống như bánh xe thì ổ trục ở chính giữa, nan hoa dựa vào ổ trục dựng lên, vành bánh xe giữ lấy nan hoa. Như vậy, trong Kiến đạo thì Khổ-Tập nhẫn-trí như nan hoa, Diệt nhẫn-Diệt trí như ổ trục, Đạo nhẫn-Đạo trí như vành bánh xe, bởi vì tất cả duyên với Đạo.

Có người nói: Khổ-Tập-Diệt nhẫn-trí như nan hoa, ba Đế như ổ trục, Đạo đế như vành xe.

Hoặc có người nói: Nhẫn-Trí của ba Đế như nan hoa, Đạo nhẫnĐạo trí như vành bánh xe, bốn Đế như ổ trục.

Hoặc có người nói: Chánh kiến-Chánh tư duy-Chánh cần như nan hoa, Chánh ngữ-Chánh nghiệp-Chánh mạng như ổ trục, Chánh niệmChánh định như vành bánh xe.

Hoặc có người nói: Chánh tư duy-Chánh cần-Chánh niệm-Chánh định như nan hoa, Chánh ngữ-Chánh nghiệp-Chánh mạng như ổ trục, Chánh kiến như vành bánh xe.

Hoặc có người nói: Chỉ có Chánh định như vành bánh xe, còn lại nói như trước.

Có người nói: Nghĩa về hàng phục bốn phương là nghĩa của Luân, như Chuyển Luân Vương vốn có vòng xe báu, hàng phục tất cả kẻ địch khắp bốn châu. Như vậy, hành giả dùng vòng xe Kiến đạo hàng phục tất cả phiền não khắp bốn Đế, cho nên gọi là Pháp luân.

Có người nói: Phiền não do Kiến mà đoạn gọi là pháp luân sai trái, bởi vì có thể khởi lên tám chi Tà; Kiến đạo là đối trị gần của nó, cho nên gọi là Pháp luân.

Tôn giả Diệu Âm nói rằng: “Tám chi Đạo thuộc Học lần lượt chuyển đổi hòa hợp, cùng lúc chuyển đến trong sự nối tiếp nhau của người khác, cho nên gọi là Pháp luân. Tám chi Đạo này thù thắng nhất ở phần vị Kiến đạo, vì thế cho nên chỉ riêng Kiến đạo gọi là Pháp luân.”

Hỏi: Đến đâu thì nên gọi là chuyển Pháp luân?

Đáp: Nếu lúc Tỳ kheo A-nhã-đa Kiều-trận-na thấy pháp.

Hỏi: Vì sao lại soạn ra phần luận này?

Đáp: Trước đây tuy hiển bày về tự tánh của Pháp luân mà chưa hiển bày về tác dụng, nay muốn hiển bày về điều đó, cho nên soạn ra phần luận này.

Có người nói: Bởi vì ngăn chặn Bộ phái Ma ha Tăng-kỳ nói rằng Pháp luân lấy lời nói làm tự tánh. Họ đưa ra cách nói này: Tất cả lời nói của Đức Phật đều là Pháp luân, nếu cho rằng Thánh đạo là Pháp luân thì ở dưới cội cây Bồ-đề đã chuyển Pháp luân, tại sao đi đến nước Bàla-ni-tư mới gọi là chuyển Pháp luân? Bởi vì ngăn chặn ý chấp ấy để hiển bày Thể của Pháp luân chỉ là Thánh đạo, không phải là tánh thuộc lời nói của Đức Phật. Nếu như là lời nói của Đức Phật, thì lẽ ra bên cội cây Bồ-đề thuyết pháp cho người buôn đã gọi là chuyển Pháp luân, tại sao về sau đến nước Bà-la-ni-tư mới nói là chuyển Pháp luân? Vì thế biết rằng lúc bấy giờ khiến cho trong thân người khác có Thánh đạo khởi lên thì mới gọi là chuyển Pháp luân. Bởi vì Pháp luân lấy Thánh đạo làm Thể, cho nên nói đến lúc Tỳ kheo A-nhã-đa Kiều-trận-na thấy pháp, gọi là Đức Phật chuyển Pháp luân.

Hỏi: Nếu như vậy thì Đức Phật ở dưới cội cây Bồ-đề đã chuyển Pháp luân, tại sao ở nước Bà-la-ni-tư mới nói là lần đầu chuyển Pháp luân?

Đáp: Chuyển Pháp luân có hai loại:

  1. Chuyển trong sự nối tiếp nhau của mình.
  2. Làm cho chuyển trong sự nối tiếp nhau của người khác.

Dưới cội cây Bồ-đề là tự mình chuyển Pháp luân, ở nước Bà-lani-tư là làm cho người khác chuyển Pháp luân. Bởi vì Đức Phật lấy sự lợi ích cho người làm sự nghiệp chính, cho nên dựa vào làm cho người khác chuyển, nói là lần đầu chuyển Pháp luân.

Có người nói: Chuyển Pháp luân có hai loại:

  1. Giống nhau.
  2. Không giống nhau.

Dưới cội cây Bồ-đề đã chuyển Pháp luân là pháp tự lợi mình giống với Nhị thừa, ở nước Bà-la-ni-tư đã chuyển Pháp luân là pháp lợi ích cho người không giống với Nhị thừa, bởi vì dựa vào không giống nhau mà nói, cho nên nói là ở nước ấy lần đầu chuyển Pháp luân.

Có người nói: Trái lại với điều này gọi là giống nhau-không giống nhau, dựa vào giống nhau mà nói là chuyển; như giống nhau-không giống nhau, đã từng-chưa từng cũng như vậy.

Có người nói: Nếu vào lúc chuyển hơn hẳn Độc giác thì mới nói là lần đầu chuyển, nghĩa là bởi vì các vị Độc giác cũng có thể tự mình chuyển, nhưng không làm cho người khác chuyển, chỉ có Đức Phật cũng có thể làm cho người khác chuyển.

Có người nói: Nếu vào lúc chuyển có người làm chứng thì mới nói là lần đầu chuyển, nghĩa là năm Tỳ kheo chứng lý Vô ngã thì mới là người làm chứng cho Đức Phật chuyển Pháp luân.

Có người nói: Ở nước Bà-la-ni-tư đã chuyển Pháp luân, là quả của công lao ngày xưa Đức Phật đã tu khổ hạnh trải qua ba Vô số kiếp, cho nên nói là lần đầu chuyển. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì nếu Đức Phật muốn nhập Niết-bàn thì ở nơi Đức Phật quá khứ đã có thể tùy ý, sở dĩ trải qua ba Vô số kiếp tinh tiến chịu khó tu tập trăm ngàn khổ hạnh, cầu sự thiện xảo đối với Uẩn-Xứ-Giới là đều làm lợi ích cho hữu tình đã được hóa độ, luôn luôn dấy lên nguyện này: Nguyện cho tôi chứng được Vô thượng Bồ-đề, sẽ mở cánh cửa Cam lộ cho hữu tình, khiến cho đều thoát khỏi ngục tù của sinh tử. Vì thế, nay đã chuyển chính là quả của sự khổ hạnh ngày xưa.

Có người nói: Nếu có thể hàng phục được phiền não trong thân người khác, thì mới gọi là tác dụng đích thực của Pháp luân. Như vòng báu của Luân Vương hàng phục nơi khác, không phải là chỉ hàng phục nơi cung điện cư trú của mình; Pháp luân của Như Lai cũng như vậy. Dựa vào điều này cho nên nói là Đức Phật lần đầu chuyển Pháp luân.

Hỏi: Nếu lúc trong thân ấy sinh khởi Thánh đạo thì ngay lúc ấy gọi là chuyển Pháp luân, tại sao nói là Đức Phật chuyển Pháp luân?

Đáp: Dựa vào nhân có thể chuyển, cho nên đưa ra cách nói này. Nghĩa là trong thân ấy vốn có Thánh đạo, nếu Đức Thế Tôn không dùng ngôn thuyết tự mình làm cho chuyển, thì Thánh đạo ấy không biết do đâu có thể sinh khởi. Thánh đạo ấy sinh khởi đều nhờ vào lực của Đức

Phật, cho nên nói là Đức Phật lần đầu chuyển Pháp luân. Như Chuyển Luân Vương chưa lấy vòng báu đặt vào tay trái để chuyển sang tay phải, thì các Thiên thần cũng không có thể chuyển, phải là Luân Vương chuyển rồi thì họ mới có thể chuyển được, cho nên nói là Luân Vương có thể chuyển chứ không phải là các Thiên thần; ở đây cũng như vậy.

Có người nói: Dựa vào duyên mở bày giác ngộ, cho nên đưa ra cách nói này. Nghĩa là trong thân ấy tuy có Thánh đạo, thậm chí nếu chưa dùng ánh sáng của lời Đức Phật dạy mà chiếu rọi tiếp xúc, thì Thánh đạo ấy không biết do đâu có thể sinh khởi. Thánh đạo ấy sinh khởi đều nhờ vào lực của Đức Phật, cho nên nói là Đức Phật lần đầu chuyển Pháp luân. Ví như trong hồ có nhiều loại hoa sen như Ốt-bátla…, thậm chí nếu chưa dùng ánh sáng mặt trời mà chiếu rọi tiếp xúc, thì không nở rộ-không bung tròn-không tỏa hương, lúc ánh sáng mặt trời chiếu rọi thì nở rộ-bung tròn-tỏa hương; ở đây cũng như vậy.

Có người nói: Dựa vào duyên loại bỏ chướng ngại, cho nên đưa ra cách nói này. Nghĩa là trong thân ấy tuy có Thánh đạo, nếu Đức Phật không dùng Danh-Cú-Văn thân khéo léo tài tình chưa hề có để loại bỏ chướng ngại vốn có trong thân ấy, thì Thánh đạo ấy không biết do đâu có thể sinh khởi. Thánh đạo ấy sinh khởi là nhờ Đức Phật loại bỏ chướng ngại, cho nên nói là Đức Phật lần đầu chuyển Pháp luân.

Có người nói: Dựa vào duyên cung cấp giúp đỡ, cho nên đưa ra cách nói này. Nghĩa là trong thân ấy tuy có Thánh đạo, nếu Đức Phật không dùng làn nước Chánh pháp để tưới mát, thì mầm non Thánh đạo không biết do đâu có thể sinh khởi. Mầm non Thánh đạo ấy sinh khởi là nhờ vào sự cung cấp giúp đỡ của Đức Phật, cho nên nói là Đức Phật lần đầu chuyển Pháp luân. Như hạt giống trong kho bởi vì thiếu đi nhiều duyên, cho nên mầm non sẽ không sinh ra, nên biết mầm non sinh ra là do lực của duyên cung cấp giúp đỡ; ở đây cũng như vậy.

Có người nói: Dựa vào duyên chỉ bày dẫn dắt, cho nên đưa ra cách nói này. Nghĩa là trong thân ấy tuy có Thánh đạo, nếu không có ngôn thuyết của Như Lai chỉ bày dẫn dắt, thì Thánh đạo trong thân ấy không chuyển, Đức Phật mở bày rõ ràng cho nên Thánh đạo ấy chuyển, cho nên nói là Đức Phật lần đầu chuyển Pháp luân. Như trong ngôi nhà tối tăm dùng đèn đuốc chiếu rọi rõ ràng thì nhìn thấy các loại vật dụng có thể lấy ra; ở đây cũng như vậy.

Có người nói: Nhờ hai nhân-hai duyên mà sinh khởi Chánh kiến:

  1. Nghe pháp âm của người khác.
  2. Tác ý như lý.

Do nghe pháp âm của người khác, cho nên nói là Đức Phật lần đầu chuyển; do tác ý như lý cho nên nói là người ấy tự chuyển.

Có người nói: Nếu người đầy đủ bốn pháp thì gọi là có nhiều việc làm, đó là thân cận bậc Thiện sĩ, lắng nghe Chánh pháp, tác ý như lý, pháp tùy pháp hành. Do thân cận bậc Thiện sĩ, lắng nghe Chánh pháp, cho nên nói là Đức Phật chuyển Pháp luân; do tác ý như lý, pháp tùy pháp hành, cho nên nói là người ấy tự chuyển Pháp luân.

Hỏi: Kiều-trận-na trú trong Khổ pháp trí nhẫn thì nên nói là Đức Phật lần đầu chuyển Pháp luân, vì sao cho đến lúc Đạo loại trí mới gọi là chuyển?

Đáp: Lúc Khổ pháp trí nhẫn tuy có thể gọi là chuyển, mà chưa đến cuối cùng; lúc Đạo loại trí thì đối với chuyển mới đến cuối cùng.

Có người nói: Lúc Đạo loại trí bởi vì có đủ ba nhân duyên, cho nên gọi là chuyển:

  1. Rời bỏ đạo đã từng có.
  2. Đạt được đạo chưa từng có.
  3. Chứng cùng một Vị đoạn kiết.

Có người nói: Lúc Đạo loại trí bởi vì có đủ năm nhân duyên, cho nên gọi là chuyển:

  1. Rời bỏ đạo đã từng có.
  2. Đạt được đạo chưa từng có.
  3. Chứng cùng một Vị đoạn kiết.
  4. Lập tức đạt được tám trí.
  5. Cùng lúc tu mười sáu hành tướng.

Rời bỏ đạo đã từng có, là rời bỏ Kiến đạo. Đạt được đạo chưa từng có, là đạt được Tu đạo. Chứng cùng một Vị đoạn kiết, là Tập chứng đoạn do Kiến mà đoạn của ba cõi. Lập tức đạt được tám trí, là lập tức đạt được bốn Pháp trí và bốn Loại trí. Cùng lúc tu mười sáu hành tướng, đó là cùng lúc tu bốn hành tướng về Khổ, cho đến bốn hành tướng về Đạo.

Có người nói: Lúc Đạo loại trí bởi vì đã đoạn tất cả phiền não do Kiến mà đoạn, không còn quan hệ của phiền não; phiền não do Nhẫn đã sửa trị, vĩnh viễn hại đến Kiến thuộc tánh Tà, cho nên vào lúc bấy giờ mới nói là chuyển.

Có người nói: Ở đây đã nói đến chuyển, là dựa vào Bổ-đặc-giàla đến quả vị có thể nói ra-có thể tính đếm, pháp có tướng có thể nói được-có thể thi thiết được mà nói, không phải là đối với thời gian trước không gọi là chuyển.

Có người nói: Ở đây đã nói đến chuyển, là dựa theo nơi chốn có thể mạng chung rồi thọ sinh mà nói, không phải là đối với thời gian trước không gọi là chuyển.

Như trong kinh nói: “Lúc Đức Phật nói về pháp môn này, Tỳ kheo Kiều-trận-na và tám vạn chư Thiên, viễn trần-ly cấu, ở trong các pháp sinh ra pháp nhãn thanh tịnh.”

Trong này, viễn trần là xa rời tùy miên, ly cấu là lìa bỏ triền cấu, ở trong các pháp là ở trong bốn Thánh đế, sinh ra pháp nhãn thanh tịnh là sinh ra pháp nhãn thanh tịnh thấy rõ bốn Thánh đế.

Hỏi: Lúc Đức Phật nói về pháp môn này, thì năm Tỳ kheo đều thấy pháp, vì sao chỉ nói đến Kiều-trận-na?

Đáp: Bởi vì Kiều-trận-na thấy pháp đầu tiên, nghĩa là Kiều-trậnna đã tiến vào Kiến đạo, bốn người còn lại hãy còn ở trong phần vị của căn thiện thuận phần quyết trạch.

Có người nói: Bởi vì Đức Thế Tôn có nguyện từ đời trước (túc nguyện) đối với vị ấy, cho nên lấy vị ấy làm đầu tiên mà chuyển Pháp luân, vì thế cho nên chỉ nói đến vị ấy. Vì vậy, Đức Phật bảo với Kiềutrận-na rằng ông đã hiểu chưa? Vị ấy thưa rằng đã hiểu. Lần thứ hai-thứ ba cũng lại như vậy, bởi vì điều này cho nên gọi vị ấy là A-nhã-đa.

Hỏi: Vì sao Đức Thế Tôn ba lần hỏi vị ấy?

Đáp: Lúc ấy Kiều-trận-na thấy Thánh đế rồi, Đức Thế Tôn liền khởi lên trí của đời trước-đời sau (tiền-hậu tế trí) để quán sát như vậy: Vì Kiều-trận-na đã phải nhận chịu nhiều Uẩn-Giới-Xứ nối tiếp nhau của nẽo ác, hay vì mình đã trải qua nhiều Sát-na, Lạp-phược, Mâu-hôlật-đa trong ba Vô số kiếp quá khứ? Quán sát rồi liền thấy Kiều-trậnna đã phải nhận chịu nhiều Uẩn-Giới-Xứ nối tiếp nhau của địa ngục vô gián, chứ không phải là mình đã trải qua nhiều Sát-na, Lạp-phược, Mâu-hô-lật-đa trong ba Vô số kiếp quá khứ. Thấy rồi liền dấy lên nghĩ rằng: Mình ở trong ba Vô số kiếp tu vô lượng trăm ngàn khổ hạnh khó làm, nay đạt được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, chỉ khiến cho Kiều-trận-na trú trong pháp không sinh khởi đối với bấy nhiêu UẩnGiới-Xứ nối tiếp nhau của địa ngục vô gián, giả sử mình liền nhập Niết-bàn thì đã làm thỏa mãn kết quả đối với công lao vất vả của mình, huống là làm những việc khác hay sao? Vì vậy ba lần hỏi vị ấy.

Lại nữa, Đức Phật thấy từ vô thỉ cho đến ngày nay, Kiều-trận-na khởi lên phiền não ràng buộc tất cả hữu tình, tất cả hữu tình cũng khởi lên phiền não ràng buộc Kiều-trận-na. Lại thấy Kiều-trận-na thọ thai ở trong sự nối tiếp nhau của tất cả hữu tình, tất cả hữu tình thọ thai ở trong sự nối tiếp nhau của Kiều-trận-na. Trải qua tổn hại lẫn nhau, trải qua ăn nuốt lẫn nhau, nói cũng như vậy. Như thấy đời trước, thấy đời sau cũng như vậy. Đức Phật thấy điều này rồi, liền dấy lên nghĩ rằng: Mình chỉ khiến cho một người như Kiều-trận-na lìa xa những sự việc như vậy đối với tất cả hữu tình, thì đối với khổ hạnh mà mình đã tu trong ba Vô số kiếp đã làm thỏa mãn kết quả, huống là còn lợi ích cho vô lượng hữu tình hay sao? Trong lòng rất vui mừng, vì vậy ba lần hỏi vị ấy.

Có người nói: Bởi vì ngăn chặn sự phỉ báng, cho nên ba lần hỏi vị ấy. Nghĩa là lúc Đức Phật còn làm Bồ-tát, chán ngán cảnh già-bệnhchết, rời khỏi thành Kiếp-tỷ-la-phiệt-suất-đổ, cầu trí tuệ Vô thượng, lúc ấy vua Tịnh Phạn sai năm người họ Thích đi theo để cung cấp hầu hạ, hai người là bà con bên mẹ, ba người là bà con bên cha. Hai người bà con bên mẹ thì chấp là hưởng thụ dục lạc đạt được thanh tịnh, ba người bà con bên cha thì chấp là khổ hạnh đạt được thanh tịnh. Lúc ấy Bồ-tát đang tu khổ hạnh, tâm của hai người bà con bên mẹ không thể nào chịu nổi, liền bỏ mà đi. Bồ-tát biết đằng sau khổ hạnh không phải là đạo, liền rời bỏ mà nhận lấy cơm canh-cháo sữa, lấy dầu xoa thân, luyện tập công hạnh Trung đạo (xử trung), ba người bà con bên cha đều nói là Bồ-tát cuồng loạn thất chí, cũng lại bỏ mà đi. Ngay sau đó có hai cô gái, đó là Nan-đà và Nan-đà-bạt-la, cùng đến cung cấp hầu hạ. Lúc bấy giờ Bồ-tát liền dấy lên nghĩ rằng: Nếu năm người ấy không rời bỏ mình thì lẽ nào để cho hai cô gái đến gần gũi với nhau? Bồ-tát nhận ăn cháo sữa mười sáu lần rồi thân lực tăng mạnh lên, từ bên người cắt cỏ tốt bụng nhận lấy bó cỏ rồi đi đến tán cây Bồ-đề, tự trải cỏ làm chỗ ngồi mà ngồi xếp bằng tròn, phát ra lời thề như vậy: Nay tôi sẽ không rời khỏi chỗ ngồi này, vì làm cho quân đội của ma phải hàng phục, vĩnh viễn đoạn trừ các phiền não, chứng được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề! Phát ra lời thề này rồi lập tức phá tan ba mươi sáu Câu-chi quân đội của ác ma, trong ba mươi bốn tâm đạt được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, dùng Phật nhãn quán xét khắp tất cả thế giới, người nào nên nghe Chánh pháp của mình đầu tiên thì mình sẽ nói cho người ấy. Quán xét rồi liền biết Ốt-đạt-lạc-ca-hạt-la-ma-tử nên nghe pháp của mình đầu tiên. Lúc ấy có Thiên thần liền thưa với Đức Phật rằng: Ốtđạt-lạc-ca-hạt-la-ma-tử đã qua đời hôm qua.

Có người nói: Bảy ngày.

Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn cũng khởi lên trí kiến biết là vị ấy đã qua đời, liền thương xót than rằng: Người ấy mất đi lợi ích to lớn, nếu người ấy nghe pháp của mình nói ra thì sẽ có được hiểu biết đúng đắn! Đức Thế Tôn tiếp tục quán xét trừ người ấy ra, người nào nên nghe pháp của mình đầu tiên thì mình sẽ nói cho người ấy. Quán xét rồi liền biết Át-la-đồ-ca-la-ma nên nghe pháp của mình đầu tiên. Thiên thần lại thưa rằng: Át-la-đồ-ca-la-ma qua đời đến nay đã bảy ngày.

Có người nói: Hôm qua.

Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn cũng khởi lên trí kiến biết là vị ấy đã qua đời mà thương xót than rằng: Người ấy mất đi lợi ích to lớn, nếu người ấy nghe pháp của mình nói ra thì sẽ có được hiểu biết đúng đắn!

Hỏi: Lúc Đức Phật mới đạt được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, vì sao không nói pháp cho hai người ấy, mà để họ qua đời không được nghe pháp, lẽ nào không phải là lỡ mất thời cơ giáo hóa hay sao?

Đáp: Có người nói: Lúc Đức Thế Tôn mới thành Phật, chưa khởi tâm nói pháp cho người khác, lại chưa dùng Đại Bi duyên với cảnh giới của hữu tình, cho nên không có lỗi để lỡ mất thời cơ hóa đạo.

Tôn giả Diệu Âm nói rằng: “Lúc Đức Phật mới đạt được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, bởi vì quý trọng Chánh pháp cho nên nhiều ngày suy nghĩ, hãy còn không kịp khởi tâm ăn uống, huống là có thể khởi tâm nói pháp cho người khác sao?”

Lại có người nói: Lúc mới thành Phật, chưa kiến lập về ba tụ hữu tình sai biệt, bởi vì chưa biết loại nào thích hợp để hóa đạo và loại nào không phải là thích hợp, cho nên không có sai sót.

Có người nói: Lúc ấy căn thiện của hai người chưa chín muồi, chưa có thể nghe pháp. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì Đức Phật thành đạo rồi, lúc ấy người thứ nhất nếu trải qua năm mươi bảy ngày mà còn sống, thì sẽ có thể nghe pháp.

Có người nói: Năm mươi sáu ngày. Có người nói: Bốn mươi chín ngày.

Lúc ấy người thứ hai nếu trải qua năm mươi mốt ngày mà còn sống, thì sẽ có thể nghe pháp.

Có người nói: Năm mươi ngày.

Có người nói: Bốn mươi ba ngày.

Vì vậy không phải là Đức Phật để lỡ mất thời cơ giáo hóa. Đức Thế Tôn có lúc giữ lại thọ mạng hiện hành của mình chờ đợi người được hóa độ, như chờ đợi Tô-bạt-đà-la… Nếu có thể giữ lại thọ mạng hiện hành của người khác, thì điều này không hề có.

Hỏi: Vì sao Đức Phật thương xót than thở?

Đáp: Trước đó Đức Phật lấy hai người ấy làm thầy luyện tập về Định thế tục, không đạt được pháp chân thật, nay Đức Phật tự mình chứng được pháp Vô thượng chân thật, muốn giúp cho họ nhận biết về pháp ấy, và muốn dùng pháp mà mình đã chứng làm lợi ích cho họ, nhưng họ đã qua đời, vì vậy cho nên thương xót than thở.

Hỏi: Trước đây nói nếu người ấy nghe pháp của mình nói ra thì sẽ có được hiểu biết đúng đắn, là dựa vào phần vị nào mà nói có được hiểu biết đúng đắn?

Đáp: có người nói: Đây là nói đến phần vị tiến vào Chánh tánh ly sinh.

Có người nói: Phần vị trú trong căn thiện thuận phần quyết trạch.

Có người nói: Phần vị khởi lên căn thiện thuận phần quyết trạch.

Nói như vậy thì cho đến khiến họ trừ bỏ tăng thượng mạn về Nhất

thiết trí, biết là chỉ riêng Đức Phật Thế Tôn có đủ Nhất thiết trí, lúc bấy giờ gọi là có được hiểu biết đúng đắn.

Đức Thế Tôn tiếp tục quán xét trừ hai người ấy ra, người nào là nên nghe pháp của mình đầu tiên thì mình sẽ nói cho người ấy. Quán xét rồi liền biết năm người như Kiều-trận-na nên nghe pháp của mình đầu tiên, liền dấy lên nghĩ rằng: Họ đều là bà con thân thuộc của cha mẹ mình, trước đây cung kính cung dưỡng cho mình, nay muốn đền đáp thì biết họ ở nơi nào? Thiên thần liền rằng: Nay ở tại vườn Nai của người Tiên thuộc nước Bà-la-ni-tư. Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn cũng khởi lên trí kiến biết là họ ở nơi ấy, liền rời cội cây Bồ-đề đi bộ mà đến nước Bà-la-ni-tư.

Hỏi: Đức Phật vốn có Thần túc thù thắng nhất, vì sao đi bộ đến nơi ấy?

Đáp: Bởi vì cung kính tôn trọng đối với pháp, cho nên không dùng Thần túc. Nhưng vào lúc đi thì chân luôn luôn cách mặt đất khoảng chừng bốn ngón tay, mỗi một dấu chân đều có vòng tròn tốt lành đáng yêu, tướng Thiên bức luân (tướng tốt thứ 2) rõ ràng như ban ngày, hình bóng của thân đã tiếp xúc cho đến bảy ngày có thể khiến cho hữu tình nào đến nơi ấy thì các căn cảm được yên lành.

Từ từ đi đến nước Bà-la-ni-tư. Lúc bấy giờ năm người bỗng nhiên từ xa trông thấy Đức Phật, liền cùng nhau đưa ra quy ước: Kiều-đápma kia lười nhác ngạo mạn-mong cầu nhiều, cuồng loạn thất chí, trống rỗng chứ không đạt được gì, bây giờ lại đến đây muốn tự mình kêu gọi dụ dỗ, mỗi người chúng ta không nên chào hỏi cung kính-trò chuyện với ông ta, chỉ trải một chỗ ngồi bình thường để mặc ông ta có ngồi hay không?

Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn từ từ đi đến gần, do uy đức của Ngài thúc bách, khiến cho họ rời bỏ quy ước ban đầu, bất giác cùng lúc từ chỗ ngồi mà đứng dậy đi nhanh đến trước đón chào, chắp tay thưa hỏi cung kính. Trong đó có người trải chỗ ngồi sạch sẽ khác, có người đón lấy y của Đức Phật, có người đón lấy bình bát của Đức Phật, có người mang nước đến, có người rửa chân cho Đức Phật, cùng thưa với Đức Phật rằng: Xin mời đến chỗ ngồi! Đức Phật liền dấy lên nghĩ rằng: Người ngu si như vậy, tự mình đưa ra quy ước, trong chốc lát lại phá bỏ.

Lúc ấy Đức Phật đến chỗ ngồi thư thái mà ngồi, uy quang tuyệt diệu như núi Diệu Cao. Lúc này, năm người tuy là cung kính mà hãy còn gọi Đức Phật là Tỳ kheo (cụ thọ), hoặc lại xưng Đức Phật là Kiềuđáp-ma. Đức Phật liền nói cho biết rằng: Các ông đừng gọi Như Lai là Tỳ kheo, cũng đừng xưng đến họ tên, nếu cố ý như vậy thì sẽ suốt đời mang lấy lợi ích vô nghĩa, nhận chịu các khổ đau khốc liệt. Nguyên cớ thế nào? Bởi và Như Lai đã chứng Vô thượng Bồ-đề, an ổn trong Niếtbàn, vượt qua sinh-già-bệnh-chết, giác ngộ về tánh của tất cả các pháp, cứu giúp cho tất cả, là bậc tôn quý trong ba cõi, thành tựu vô biên pháp công đức.

Lúc ấy năm người nói: Tỳ kheo vẫn là Kiều-đáp-ma ngày xưa, thân hình-việc làm không khác ngày xưa, lười nhác ngạo mạn-mong cầu nhiều, cuồng loạn thất chí, rời bỏ khổ hạnh, nhận lấy đồ ăn thức uống ngon lành, lấy dầu xoa thân, da dẻ hồng hào trơn láng, tuy biết Tỳ kheo tự nói mình chứng được Vô thượng Bồ-đề, an ổn trong Niết-bàn, nhưng ai sẽ tin mà không cho phép chúng tôi xưng đến họ tên? Đức Thế Tôn bảo rằng: Nay các ông nhìn diện mạo-uy quang-các căn và cử chỉ của Ta lẽ nào cùng với ngày xưa giống nhau hay sao? Năm người trả lời rằng: Chúng tôi nhìn Tỳ kheo thật sự khác với ngày xưa.

Đức Phật nói rằng: Nếu Ta không chứng được pháp thì lẽ nào có được như vậy, các ông nên lấy điều này để chứng thực biết rằng Ta chứng được Vô thượng Bồ-đề, vì sao vẫn đối với Như Lai mà sinh lòng không tin tưởng? Ngay sau đó Đức Thế Tôn từ từ giáo hóa dạy dỗ để điều phục họ. Vào thời gian buổi sáng nói pháp-khuyên nhủ-giảng dạy cho hai người, để ba người còn lại đi vào thôn làng khất thực, họ đã khất thực đầy đủ cho sáu người. Vào thời gian buổi chiều nói pháp-khuyên nhủ-giảng dạy cho ba người, để hai người còn lại đi vào thôn làng khất thực, họ đã khất thực đầy đủ cho năm người, bởi vì tánh của Đức Thế Tôn lìa bỏ ăn phi thời. Giáo hóa trải qua ba tháng như vậy. Có người nói: Bốn tháng.

Khiến cho căn thiện của năm người ấy chín muồi rồi, vào ngày mồng tám thuộc nửa sáng của tháng Ca-lật-để-ca, Như Lai chuyển Pháp luân Chánh giáo (chánh pháp luân) cho họ. Lúc ấy Kiều-trận-na thấy pháp đầu tiên, Đức Phật đã ba lần hỏi ông đã hiểu chưa? Đây là ý hỏi rằng: Nay ông nhìn Ta là lười nhác ngạo mạn-mong cầu nhiều, cuồng loạn thất chí, không chứng được Vô thượng Bồ-đề, an ổn trong Niết-bàn, mà lừa dối ông chăng? Cho nên ba lần hỏi có hiểu hay không? Vị ấy vẫn ba lần trả lời rằng đã hiểu. Đây là ý trả lời rằng: Nay con nhìn Đức Phật thật sự không phải là lười nhác ngạo mạn-mong cầu nhiều, cũng không phải là cuồng loạn thất chí, lại thật sự chứng được Vô thượng Bồđề, an ổn trong Niết-bàn mà không phải là lừa dối con, nay con là người làm chứng cho Đức Phật. Cho nên ba lần trả lời là đã hiểu. Vì vậy để ngăn chặn sự phỉ báng, mà Đức Phật ba lần hỏi vị ấy.

Có người nói: Bởi vì hiển bày về nguyện xưa (bổn nguyện) đã thỏa mãn, cho nên ba lần hỏi.

Sự việc ấy như thế nào? Từng nghe thời quá khứ, trong kiếp Hiền này có vị vua tên gọi Yết-lợi, lúc ấy có vị người Tiên hiệu là Nhẫn Nhục, ở trong một khu rừng chịu khó tu khổ hạnh. Lúc ấy vua Yết-lợi trừ ra những người đàn ông, cùng với quyến thuộc trong cung làm các kỹ nhạc, dạo chơi trong khu rừng, thỏa ý vui chơi trải qua thời gian dài mệt mỏi chán ngán cho nên ngủ say.

Những mỹ nữ trong cung bởi vì hoa trái cho nên đi đến mọi nơi trong khu rừng, từ xa trông thấy người Tiên ở nơi cư trú của mình đang ngồi trang nghiêm suy nghĩ, liền cùng nhau chạy đến tập trung nơi ấy, đến rồi cúi đầu lễ lạy mà ngồi vây quanh. Người Tiên liền vì họ mà nói về lỗi lầm của dục, đó là các dục đều là pháp bất tịnh xấu xa, là pháp đáng quở trách, là pháp đáng chán ngán lo sợ, người nào có trí mà lại thường gần gũi pháp ấy, các chị đều nên sinh lòng chán ngán rời bỏ!

Nhà vua từ giấc ngủ tỉnh dậy, không thấy các mỹ nữ liền dấy lên nghĩ rằng: Mong là không có người nào dụ dỗ cướp đi chăng? Liền rút gươm nhọn đi khắp nơi tìm kiếm, mới thấy các mỹ nữ vây quanh mà ngồi ở bên cạnh người Tiên, trong lòng vô cùng giận dữ, là Đại quỷ nào dụ dỗ các mỹ nữ của Ta?

Lập tức đi đến trước mặt hỏi rằng: Nhà ngươi là ai? Trả lời rằng: Tôi là người Tiên. Lại hỏi: Ở đây làm chuyện gì? Trả lời rằng: Tu đạo Nhẫn nhục. Nhà vua dấy lên nghĩ rằng: Người này thấy Ta giận dữ cho nên liền nói là tôi tu Nhẫn nhục, nay Ta thử xem. Liền tiếp tục hỏi: Ông đạt được Định Phi tưởng phi phi tưởng chăng? Trả lời rằng: Không đạt được. Lần lượt vặn hỏi cho đến: Ông đạt được Tĩnh lự thứ nhất chăng? Trả lời rằng: Không đạt được.

Nhà vua càng tức giận hơn nói rằng: Ông là người chưa lìa dục, tại sao tùy ý nhìn ngắm các mỹ nữ của Ta, còn nói tôi là người tu Nhẫn nhục, hãy duỗi một cánh tay thử xem có thể Nhẫn được hay không? Lúc bấy giờ người Tiên liền duỗi một cánh tay, nhà vua dùng gươm sắc chặt đứt, như chặt đứt ngó sen rơi ở trên mặt đất.

Nhà vua lại vặn hỏi: Nhà ngươi là người nào? Trả lời rằng: Tôi là người tu Nhẫn nhục. Lúc ấy nhà vua lại khiến duỗi một cánh tay còn lại, lập tức tiếp tục chặt đứt, vặn hỏi như trước. Người Tiên cũng như trước trả lời rằng: Tôi là người tu Nhẫn nhục.

Như vậy tiếp đến chặt đứt hai chân, lại cắt hai lỗ tai, còn cắt đứt

lỗ mũi, mỗi một lần vặn hỏi và trả lời đều như trước. Làm cho bảy phần thân thể của người Tiên rơi trên mặt đất, làm thành bảy vết thương rồi, tâm nhà vua liền dừng lại. Người Tiên nói rằng: Nay nhà vua vì sao tự mình sinh ra mệt mỏi chán ngán, giả sử chặt đứt tất cả thân thể của tôi nát vụn giống như hạt cải, thậm chí là bụi nhỏ thì tôi cũng không sinh khởi một niệm tức giận, đó nói là Nhẫn nhục rốt cuộc không có gì khác. Lại phát ra nguyện này: Như ông hôm nay, tôi thật sự không có tội, mà chặt đứt thân tôi khiến cho thành bảy phần, làm ra bảy vết thương; tôi ở đời vị lai, lúc đạt được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, vì tâm Đại Bi không đợi ông thỉnh cầu, đầu tiên khiến cho ông tu bảy loại đạo, đoạn trừ bảy tùy miên!

Nên biết rằng người Tiên Nhẫn Nhục lúc bấy giờ, nay chính là Đức Thế Tôn Thích-ca Mâu-ni; vua Yết-lợi lúc ấy, nay chính là Tỳ kheo Kiều-trận-na. Vì thế cho nên Kiều-trận-na thấy Thánh đế rồi, Đức Phật dùng thần lực trừ bỏ chướng ngại tối tăm của vị ấy, khiến cho nhớ lại sự việc của đời quá khứ, vị ấy liền tự thấy mình là vua Yết-lợi, Đức Phật là người Tiên, tự mình dùng gươm sắc chặt đứt bảy phần thân thể của Đức Phật làm ra bảy vết thương, Đức Phật không tức giận mà lại dùng thệ nguyện muốn làm lợi ích cho mình. Cho nên Đức Phật Thế Tôn ba lần hỏi có hiểu hay không? Đây là ý hỏi rằng: Ta lẽ nào làm trái với nguyện xưa hay sao, lẽ nào không như thệ nguyện trước kia đã đền đáp đầy đủ hay sao? Lúc ấy trong lòng Kiều-trận-na vô cùng hổ thẹn, chắp tay cung kính, cũng ba lần trả lời là đã hiểu. Đây là ý trả lời rằng: Thật sự biết Đức Thế Tôn không trái với nguyện xưa, như thệ nguyện trước kia đều đã đền đáp đầy đủ, con vốn ngu si gây ra tội ác vô cùng ấy, chỉ mong Đức Thế Tôn thương xót tha cho tội nặng của con. Vì thế cho nên Đức Phật ba lần hỏi vị ấy để làm trọn vẹn nguyện xưa.

Có người nói: Đức Thế Tôn hiển bày về mình có năng lực khéo léo nói pháp, cho nên ba lần hỏi vị ấy. Nghĩa là ý này nói Ta ở trong ba Vô số kiếp, tu vô lượng trăm ngàn khổ hạnh khó làm mà chứng được pháp, bởi vì khéo léo giảng giải khiến cho người ấy trong chốc lát đã đạt được hiểu biết rõ ràng. Vì thế cho nên ba lần hỏi vị ấy.

Có người nói: Đức Thế Tôn khiến cho bốn người còn lại nghe mà sinh tâm dũng mãnh, nối tiếp nhau tiến vào Kiến đạo, cho nên ba lần hỏi vị ấy.

Có người nói: Đức Thế Tôn muốn hiển bày trong cách nói pháp khéo léo, Thầy và đệ tử đối với pháp đã chứng, xem xét tường tận chân thật lìa xa tăng thượng mạn, không giống như ngoại đạo đối với pháp chưa đạt được, khởi lên tăng thượng mạn nói là đã đạt được, vì vậy ba lần hỏi vị ấy.

Hỏi: Đức Phật lần đầu chuyển Pháp luân thì có tám vạn chư Thiên cũng cùng thấy pháp, tại sao chỉ nói là vì năm người như Kiều-trận-na… mà chuyển Pháp luân?

Đáp: Trong này chỉ nói đến việc làm chính thức, chư Thiên nhờ vào năm người cho nên được nghe chứ không phải là việc làm chính thức, vì vậy không nói đến.

Có người nói: Loài người thấy pháp trước, cho nên chỉ nói đến loài người.

Có người nói: Loài người thấy và đang thấy, chư Thiên không phải là đang thấy.

Có người nói: Thân tướng-oai nghi-việc làm của Đức Phật cùng với loài người chắc chắn giống nhau, chư Thiên thì không như vậy.

Có người nói: Nếu ở nơi này gọi là pháp diệt thì ở nơi này gọi là chuyển Pháp luân, nghĩa là tuy trong loài trời có chứng được Cam lộ, nhưng nếu trong loài người không có thì gọi là pháp diệt, cho nên chỉ nói là vì loài người mà chuyển Pháp luân.

Có người nói: Trong loài người thì đệ tử của Đức Phật có bốn chúng sai biệt, trong loài trời thì không như vậy.

Có người nói: Đức Phật chuyển Pháp luân, lấy loài người làm chứng, chứ không lấy loài trời làm chứng.

Có người nói: Trong loài người có người có thể chuyển và người được chuyển, vì vậy nói đến loài người; trong loài trời chỉ có người được chuyển chứ không có người có thể chuyển, vì thế cho nên không nói.

Có người nói: Trong loài người có thể đạt được các loại công đức thù thắng, trong loài trời thì không như vậy, vì thế cho nên chỉ nói là vì loài người mà chuyển Pháp luân.

*******

 

Chuyển Pháp luân rồi, Địa thần xướng lên âm thanh, lần lượt chuyển tiếp đến khắp mọi nơi…

Hỏi: Trong pháp hội cũng có nhiều Thiên thần khác phát ra âm thanh báo tin cho nhau, vì sao chỉ nói là Địa thần xướng lên âm thanh?

Đáp: Bởi vì lúc ấy Địa thần phát ra âm thanh đầu tiên.

Hỏi: Vì sao Địa thần phát ra âm thanh đầu tiên?

Đáp: Bởi vì Địa thần ở rất gần Đức Phật.

Lại nữa, bởi vì Địa thần luôn luôn đi theo Đức Phật mà làm người bảo vệ. Nghĩa là từ lúc Bồ-tát tiến vào thai-mới sinh ra-vượt thành xuất gia và tu khổ hạnh, cho đến lúc thành Phật chuyển Pháp luân, Địa thần luôn luôn đi theo bảo vệ khiến cho không có gì trở ngại, nay thấy Như Lai chuyển Pháp luân rồi, hoan hỷ phấn khởi tự mừng cho công lao của mình đã làm từ trước đến nay, bây giờ có được kết quả trọn vẹn, cho nên xướng lên thông báo đầu tiên.

Lại nữa, lúc ấy pháp hội tuy có nhiều Thiên thần khác, mà bởi vì tánh của Địa thần vội vàng nôn nóng, cho nên xướng lên đầu tiên; như trong chúng bây giờ, người có tánh vội vàng nôn nóng thì vui nhiều mà nói to lên, Địa thần cũng như vậy.

Lại nữa, tánh của Địa thần nhiều vui mừng, thấy sự việc hiếm có này trong lòng rất hoan hỷ, cho nên phát ra âm thanh đầu tiên.

Lại nữa, bởi vì đây là pháp gần-xa theo thứ tự. Nghĩa là Địa thần xướng lên đầu tiên, tiếp theo là thần Hư không, tiếp theo là trời Tứ Đại Vương Chúng, như vậy lần lượt chuyển tiếp trong chốc lát âm thanh lên đến cõi Phạm Thế.

Hỏi: Âm thanh là tánh thuộc sát-na, nếu sinh ra ở nơi này thì chắc chắn diệt đi ở nơi này, làm sao có thể nói là lên đến cõi Phạm Thế?

Đáp: Bởi vì dựa vào nghĩa lần lượt chuyển tiếp, cho nên đưa ra cách nói này. Nghĩa là Địa thần xướng lên rồi, thần Hư không xướng lên, lần lượt chuyển tiếp đến khắp mọi nơi, cho đến Phạm Thiên; như pháp thắp ngọn đèn lần lượt chuyển tiếp rộng ra.

Có người nói: Lúc chuyển Pháp luân thì vô lượng chư Thiên đều đến tụ hội, đã nghe pháp rồi đều trở về trú xứ của mình, thông báo rộng ra trong Bộ chúng của mình, cho nên nói là âm thanh lần lượt chuyển tiếp lên đến cõi Phạm Thế.

Có người nói: Lúc ấy phát ra âm thanh cũng không có quyết định, trước-sau chỉ là người nói thuật lại theo thứ tự, pháp thuận theo như vậy cho nên đưa ra cách nói này: Địa thần xướng lên đầu tiên…, cho đến nói rộng ra.

Như trong kinh nói: “Lúc Chuyển Luân Vương xuất thế, danh tiếng lên đến cõi trời Tha Hóa Tự Tại; lúc Đức Phật vì Kiều-trận-na… mà chuyển Pháp luân, danh tiếng lên đến cõi Phạm Thế; lúc Đức Phật đạt được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, danh tiếng lên đến cõi trời Sắc Cứu Cánh.”

Hỏi: Vì sao có ba loại sai biệt như vậy?

Đáp: Lúc Chuyển Luân Vương xuất thế, dùng mười pháp thiện dạy dỗ hữu tình, pháp này chắc chắn nhận lấy quả dị thục ở trong trời cõi Dục, chư Thiên sáu tầng trời cõi Dục đều sinh lòng hoan hỷ, quyến thuộc của chúng ta không bao lâu sẽ thêm nhiều. Vì thế cho nên lúc Luân Vương xuất thế, danh tiếng lên đến cõi trời Tha Hóa Tự Tại. Lúc Phạm Thiên Vương thỉnh cầu Đức Phật chuyển Pháp luân, chư Thiên nghe Đức Phật chuyển Pháp luân thì rất vui mừng tùy hỷ. Vì thế cho nên lúc chuyển Pháp luân, danh tiếng lên đến cõi Phạm Thế. Trời Tịnh Cư giác ngộ Bồ-tát khiến cho vượt thành xuất gia cầu trí Vô thượng, họ nghe Bồ-tát đạt được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, trong lòng rất vui mừng. Vì thế cho nên lúc mới thành Phật, danh tiếng lên đến cõi trời Sắc Cứu Cánh.

Lại nữa, Chuyển Luân Vương là người thọ dục, cho nên lúc xuất thế danh tiếng xa nhất đến cõi Dục, chứ không đến địa lìa dục. Lúc Đức Phật chuyển Pháp luân, ở trong một chúng hội có cao thấp-hơn kém, sự việc này chỉ đến cõi Phạm Thế, vì thế cho nên lúc chuyển Pháp luân, danh tiếng lên đến cõi Phạm Thiên. Chỉ có danh tiếng của Như Lai là cao xa, không có nơi nào không đến được, vì thế cho nên lúc Đức Phật đạt được quả vị Vô thượng Bồ-đề, danh tiếng truyền khắp tất cả mọi nơi, cho đến cõi trời Sắc Cứu Cánh. Giả sử hữu tình cõi Hữu Đảnh có Nhĩ thức thì danh tiếng cũng lên đến cõi ấy. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì Như Lai tu về nghiệp danh tiếng từ thưở lâu xa.

Lại nữa, các loài hữu tình tạo tác tăng trưởng về nghiệp danh tiếng to lớn có bậc Thượng-Trung-Hạ, bậc Hạ thì như Chuyển Luân Vương, bậc Trung thì như Kiều-trận-na…, bậc Thượng thì đó là Đức Phật. Vì thế cho nên đối với danh tiếng ấy có xa-có gần.

Lại nữa, các loài hữu tình tạo tác tăng trưởng về nghiệp tôn quý thanh tịnh có bậc Thượng-Trung-Hạ, bậc Hạ thì như Chuyển Luân Vương, bậc Trung thì như Kiều-trận-na…, bậc Thượng thì đó là Đức Phật. Vì thế cho nên danh tiếng đến nơi có xa-có gần.

Tôn giả Thế Hữu nói rằng: “Các loài hữu tình cung kính-ca ngợi đối với cha mẹ-thầy dạy, Sa-môn, Bà-la-môn, Đức Phật, Độc giác, và đệ tử của Đức Phật, nghiệp thân-ngữ-ý có bậc Thượng-Trung-Hạ, bậc Hạ thì như Chuyển Luân Vương, bậc Trung thì như Kiều-trận-na…, bậc Thượng thì đó là Đức Phật. Vì thế cho nên danh tiếng truyền đến ba nơi không giống nhau.”

Hỏi: Địa trên cũng có âm thanh, vì sao lúc chuyển Pháp luân thì âm thanh chỉ đến cõi Phạm Thế?

Đáp: Bởi vì nghiệp Biểu của ngữ thì âm thanh chỉ đến cõi ấy.

Lại nữa, hành của ngôn ngữ chỉ đến địa ấy, hành của ngôn ngữ đó gọi là Tầm-Tứ.

Lại nữa, bởi vì ngay cả địa ấy có thể có Nhĩ thức, chứ không phải là địa trên.

Có người nói: Chỉ đến cõi Phạm Thế, bởi vì có thể khởi lên đầy đủ ngữ của thiện-nhiễm ô-vô phú vô ký có âm thanh biểu hiện, chứ không phải là địa trên.

Lại nữa, chỉ đến cõi Phạm Thế, bởi vì có thể khởi lên đầy đủ Nhĩ thức của thiện-nhiễm ô-vô phú vô ký hiện rõ trước mắt, chứ không phải là địa trên.

Có người nói: Nếu nơi nào có chúng sinh sai biệt, thì lúc chuyển Pháp luân sẽ có âm thanh đến nơi ấy.

Lại nữa, nếu nơi nào làm phạm vi của ba ngàn thế giới, thì âm thanh truyền đến nơi ấy.

Có người nói: Cõi Phạm Thế là nơi tôn trọng của hữu tình thế gian, vì thế cho nên lúc chuyển Pháp luân thì âm thanh chỉ đến nơi ấy.

Lại có người nói: Chư Thiên ở địa trên cũng gọi là Phạm, vì thế cho nên lúc chuyển Pháp luân thì âm thanh truyền đến cõi Phạm Thế, chứ không chỉ đến địa Tĩnh lự thứ nhất.

Hỏi: Pháp của Đức Phật đã nói ra đều gọi là Pháp luân chăng?

Đáp: Không phải như vậy, chỉ có pháp khiến cho tiến vào Kiến đạo, mới gọi là Pháp luân.

Hỏi: Nếu như vậy thì nhiều người nghe Đức Phật nói pháp tiến vào Kiến đạo, vì sao không gọi là Pháp luân?

Đáp: Tất cả những người ấy tuy đều là Pháp luân, mà người đầu tiên và người cuối cùng đạt được sự hiểu biết chính xác, mới nói là Pháp luân, đầu tiên đó là Kiều-trận-na…, cuối cùng đó là Tô-bạt-đà-la.

Hỏi: Nơi chuyển Pháp luân của tất cả chư Phật là nhất định hay không nhất định? Nếu nhất định thì Bổn sự của Phật Nhiên Đăng nên hiểu thế nào? Như nói: “Đức Phật Nhiên Đăng chuyển Pháp luân ở núi Hát-lợi-đa-la thuộc thành Đăng Quang…” Nếu không nhất định thì bài tụng mà Đạt-ma-tô-bộ-để đã nói nên hiểu thế nào? Như nói:

“Nên nghĩ đến chư Phật quá khứ,
Cũng lần đầu chuyển vận Diệu pháp,
Trong rừng Thí Lộc-nơi Tiên luận,
Ở tại cung điện Ca-thi này.”

Đáp: Có người nói: Nên nói nơi chuyển Pháp luân là nhất định.

Hỏi: Nếu như vậy thì Bổn sự của Phật Nhiên Đăng nên hiểu thế nào?

Đáp: Điều này không cần phải thông hiểu. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì điều này không phải là trong Tố-đát-lãm, Tỳ-nại-da, A-tỳ-đạtma đã nói, chỉ là truyện nói ra, mà các truyện đã nói thì có lúc đúng-có lúc không đúng. Nếu nhất định phải thông hiểu, thì nên biết thành Đăng Quang thời quá khứ chính là nước Bà-la-ni-tư bây giờ, núi Hát-lợi-đa-la thời quá khứ chính là Lộc Uyển của người Tiên bây giờ.

Hoặc đưa ra cách nói này: Nơi chuyển Pháp luân của tất cả chư Phật là nhất định, đó là nói có bốn nơi nhất định, hai nơi không nhất định. Bốn nơi nhất định, đó là nơi cội cây Bồ-đề, nơi chuyển Pháp luân, nơi từ trên cõi trời đi xuống, nơi hiện bày nhiều sự thần biến. Hai nơi không nhất định, đó là nơi Đức Phật đản sinh và nơi nhập Niết-bàn.

Hỏi: Vì sao biết được nơi cội cây Bồ-đề là nhất định?

Đáp: Từng nghe thời quá khứ có vị Chuyển Luân Vương, dẫn theo bốn đội quân bay giữa hư không mà vượt qua, đến phía trên cội cây Bồđề thì vòng xe báu liền dừng lại, muốn tiến về phía trước không được, nhà vua liền hoảng sợ dấy lên suy nghĩ rằng: Nay mình mong rằng không phải là mất đi ngôi vua, hoặc là tính mạng gặp tai họa gì chăng? Lúc ấy vị thần cây Bồ-đề liền thưa với nhà vua rằng: Đại Vương đừng sợ hãi, không mất đi ngôi vua, cũng không có tai họa gì đến tính mạng, Đại Vương không thấy phía dưới là cội cây Bồ-đề chăng, trong này có tòa Kim cang, tất cả Bồ-tát đều chứng được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề ở tại tòa Kim cang này, Đại Vương muốn đi qua thì hãy tránh nơi này theo đường khác mà đi. Lúc ấy nhà vua liền hạ xuống, dùng các loại cúng dường cội cây Bồ-đề rồi theo đường khác mà đi. Bởi vì sự việc này, cho nên biết nơi cội cây Bồ-đề là nhất định. Nơi chuyển Pháp luân là nhất định, thì như trước đã dẫn bài tụng của Pháp Thiện Hiện.

Hỏi: Lại vì sao biết được nơi từ trên cõi trời đi xuống là nhất định?

Đáp: Từng nghe sau khi Đức Phật diệt độ, nơi này có sự cố khó khăn xảy ra, các hàng Tỳ kheo đều cùng nhau bỏ đi, ngoại đạo dị học đến ở trong đó. Thời gian sau các Tỳ kheo đến đòi lại chỗ ấy, nói với ngoại đạo rằng: Đây là nơi mà bậc Thầy của chúng tôi từ trên cõi trời đi xuống, hãy mau chóng tránh đi nơi khác. Các ngoại đạo nói rằng: Đây là nơi mà chúng tôi thường cư trú. Vì vậy hai chúng nhiều phen khởi lên tranh chấp, hàng Trưởng giả-cư sĩ-các quan chức… ở gần trong thành đến giải quyết sự tranh chấp ấy, mà không thể nào giải quyết được, ngay cả nhà vua tự mình giải quyết tranh chấp cũng không thể nào phân định. Lúc ấy các Tỳ kheo nói với ngoại đạo rằng: Nay sẽ cùng với các ông đưa ra lời nói chân thành, phải thuộc về ai thì sẽ có điềm lành xuất hiện. Ngoại đạo nói đúng như vậy. Họ liền cầu thỉnh trước mà không có gì linh nghiệm. Tỳ kheo liền tiếp tục đưa ra lời nói chân thành: Nơi này nếu là nơi tất cả Như Lai đi lên cõi trời Tam Thập Tam vì Từ mẫu thuyết pháp trải qua ba tháng rồi đi xuống, thì sẽ có điềm lành xuất hiện! Lúc ấy trên trụ đá lớn ở trú xứ ấy có con sư tử bằng đá lập tức gầm lên, ngoại đạo kinh hãi liền bỏ đi, từ miệng của sư tử lại nhả ra các vòng hoa quý báu, quấn quanh trụ đá, phủ kín khắp nơi. Lúc ấy mọi người nhìn thấy đều ca ngợi là điều chưa từng có, thế là các Tỳ kheo trở về cùng nhau cư trú. Vì vậy cho nên biết nơi Đức Phật từ trên cõi trời đi xuống là nhất định.

Hỏi: Lại vì sao biết được nơi hiện bày nhiều sự thần biến l à nhất định?

Đáp: Từng nghe ngoại đạo bị Đức Phật truy tìm, ở khắp sáu thành lớn không có nơi nào ẩn náu, liền cùng nhau tụ tập thỉnh cầu thi đấu thần lực với Như Lai, Đức Phật đều không đồng ý. Sau đến thành Thấtla-phiệt-tất-để mới bắt đầu đồng ý để hiện bày thần biến, vô lượng ngoại đạo quay về xuất gia theo Đức Phật. Vì vậy cho nên biết nơi hiện bày nhiều sự thần biến là nhất định.

Có người nói: Nơi chư Phật chuyển Pháp luân là không nhất định. Nguyên cớ thế nào?

Bởi vì nếu Ốt-đạt-lạc-ca-hạt-la-ma-tử và Át-la-đồ-ca-la-ma không mạng chung, thì lẽ nào Đức Phật rời bỏ nước Ma-kiệt-đà để đi đến nước Bà-la-ni-tư hay sao? Cho nên biết là chỉ tùy theo người thích hợp để nghe pháp đầu tiên ở nơi nào thì ở nơi ấy mà chuyển Pháp luân.

Hỏi: Nếu như vậy thì bài tụng của Pháp Thiện Hiện nên hiểu thế nào?

Đáp: Điều này không cần phải thông hiểu. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì điều này không phải là trong Tố-đát-lãm, Tỳ-nại-da, A-tỳ-đạtma đã nói, chỉ là văn tụng, mà làm ra văn tụng thì có lúc tăng thêm, có lúc giảm bớt. Nếu nhất định muốn thông hiểu thì quá khứ cũng từng có Đức Phật lần đầu chuyển Pháp luân ở tại nơi này, chứ không phải là nói tất cả, cho nên không phải là quyết định.

Hoặc đưa ra cách nói này: Nơi chuyển Pháp luân là không nhất định, đó là nói có ba nơi nhất định, ba nơi không nhất định. Ba nơi nhất định, đó là nơi cội cây Bồ-đề, nơi từ trên cõi trời đi xuống, nơi hiện bày nhiều sự thần biến. Ba nơi không nhất định, đó là nơi Đức Phật đản sinh, nơi chuyển Pháp luân, và nơi nhập Niết-bàn.

Như đã nói Đức Phật ở trong rừng Thí Lộc, nơi luận bàn của người Tiên, ở nước Bà-la-ni-tư, vì Kiều-trận-na… mà chuyển Pháp luân Chánh giáo.

Hỏi: Vì sao gọi là Bà-la-ni-tư?

Đáp: Đây là tên gọi của dòng sông, Vương thành xây dựng cách đó không xa, vì thế cho nên thành này cũng gọi là Bà-la-ni-tư.

Hỏi: Vì sao gọi là nơi luận bàn của người Tiên?

Đáp: Nếu đưa ra cách nói này: Chư Phật nhất định chuyển Pháp luân ở tại nơi này, thì lúc ấy nói đến chư Phật là người Tiên thù thắng nhất, đều lần đầu chuyển Pháp luân ở tại nơi này, cho nên gọi là nơi luận bàn của người Tiên.

Nếu đưa ra cách nói này: Chư Phật không phải là nhất định chuyển Pháp luân ở tại nơi này, thì lúc ấy nên nói là trú xứ của người Tiên. Nghĩa là lúc Đức Phật xuất thế, thì có vị Đại Tiên Phật và Tiên chúng-đệ tử hàng Thánh cư trú; lúc Đức Phật không xuất thế, thì có Độc giác Tiên cư trú. Nếu lúc không có Độc giác xuất thế, thì có Tiên đầy đủ năm Thông thế tục cư trú. Bởi vì nơi này luôn luôn có các vị Tiên đã cư trúđang cư trú-sẽ cư trú, cho nên gọi là nơi luận bàn của người Tiên.

Có người nói: Nên nói là nơi người Tiên rơi xuống, xưa kia có năm trăm người Tiên bay đi giữa hư không, đến nơi này gặp phải nhân duyên lui sụt, cùng lúc mà rơi xuống.

Hỏi: Vì sao gọi là rừng Thí Lộc?

Đáp: Bởi vì khu rừng này luôn luôn có các loài hươu nai đi lại cư trú, cho nên gọi là rừng hươu (Lộc Lâm). Xưa có vị Quốc Vương tên gọi Phạm-đạt-đa, lấy khu rừng này để giúp đỡ bầy hươu, cho nên gọi là rừng Thí Lộc. Như Trưởng giả Yết-lan-đạc-ca, ở trong vườn Trúc Lâm thuộc thành Vương Xá, đào một cái hồ để giúp cho loài chim Yết-lanđạc-ca, khiến cho loài chim ấy đi lại đùa vui, vì vậy gọi là hồ Thí Yếtlan-đạc-ca. Rừng này cũng như vậy, cho nên gọi là rừng Thí Lộc.

Hỏi: Thế nào là Chánh pháp?

Đáp: Căn-Lực-Giác chi-Đạo chi vô lậu.

Hỏi: Vì sao soạn ra phần luận này?

Đáp: Bởi vì muốn phân biệt nghĩa lý trong kinh. Như bài tụng nói:

“Hết thảy chư Phật trong ba đời,
Có thể phá tan mọi khổ đau,
Chư Phật đều tôn trọng Chánh pháp,
Luôn luôn an trú trong pháp tánh.”

Lại trong kinh nói: “Có hai Bổ-đặc-già-la có thể trú trì Chánh pháp, đó là người thuyết giảng và người thực hành.” Trong Tỳ-nại-da nói: “Chánh pháp của Ta sẽ tồn tại một ngàn năm, hoặc là vượt qua số này, bởi vì độ người nữ xuất gia, cho nên đã giảm bớt năm trăm năm.” Đức Thế Tôn nói về Chánh pháp ở khắp mọi nơi, mà không phân biệt thế nào là Chánh pháp. Kinh là nơi nương tựa căn bản của luận này, điều gì trong kinh chưa giải thích, thì nay cần phải giải thích, cho nên soạn ra phần luận này.

Hỏi: Căn-Lực-Đạo chi hữu lậu là Chánh pháp hay không phải là Chánh pháp? Nếu là Chánh pháp thì vì sao trong này không nói? Nếu không phải là Chánh pháp thì vì sao vô lậu là Chánh pháp mà hữu lậu lại không phải là Chánh pháp?

Đáp: Có người nói: Hữu lậu cũng là Chánh pháp.

Hỏi: Vì sao trong này không nói?

Đáp: Cần phải nói mà không nói đến, thì nên biết là nghĩa này có khác.

Lại nữa, Căn… hữu lậu là gia hạnh của vô lậu, nếu nói về Căn bản thì đã thâu nhiếp gia hạnh, cho nên không nói riêng biệt.

Lại nữa, Căn… hữu lậu là gia hạnh của vô lậu, cho nên cũng gọi là vô lậu, bởi vì đã thâu nhiếp ở trong phần trước đã nói.

Có người nói: Căn… hữu lậu không phải là Chánh pháp.

Hỏi: Vì sao vô lậu là Chánh pháp mà hữu lậu lại không phải là Chánh pháp?

Đáp: Bởi vì pháp hữu lậu có lỗi lầm tai họa, phải là pháp không có lỗi lầm tai họa thì mới gọi là Chánh pháp.

Lại nữa, pháp là thanh tịnh-là đáng được ca ngợi, thì gọi là Chánh pháp; bởi vì pháp hữu lậu ngược lại với điều này, cho nên không phải là Chánh pháp.

Lại nữa, Chánh pháp là pháp có năng lực vĩnh viễn thoát khỏi sinh tử-được nhập Niết-bàn, pháp hữu lậu thì không như vậy, cho nên không gọi là Chánh pháp.

Hỏi: Niệm trú-Chánh đoạn-Thần túc cũng là Chánh pháp hay không phải là Chánh pháp? Nếu là Chánh pháp thì vì sao trong này không nói? Nếu không phải là Chánh pháp thì vì sao Căn-Lực-Giác chiĐạo chi là Chánh pháp, mà Niệm trú… lại không phải là Chánh pháp?

Đáp: Niệm trú… cũng là Chánh pháp.

Hỏi: Nếu như vậy thì vì sao trong này không nói?

Đáp: Cần phải nói mà không nói đến, thì nên biết là nghĩa này có khác.

Lại nữa, nếu nói đến Căn… thì tùy thuận đối với văn này, Niệm trú… không phải là thuận với văn này, vì thế cho nên không nói.

Lại nữa, Niệm trú-Chánh đoạn-Thần túc cũng thâu nhiếp ở trong phần trước đã nói, nghĩa là bốn Niệm trú tức là do Tuệ căn-Tuệ lựcTrạch pháp giác chi-Chánh kiến thâu nhiếp, bốn Chánh đoạn tức là do Tinh tiến căn-Tinh tiến lực-Tinh tiến giác chi-Chánh cần thâu nhiếp, bốn Thần túc tức là do Định căn-Định lực-Định giác chi-Chánh định thâu nhiếp.

Hỏi: Đến đâu thì nên nói là Chánh pháp còn trú?

Đáp: Nếu lúc người thực hành giáo pháp còn trú.

Hỏi: Đến đâu thì nên nói là Chánh pháp diệt mất?

Đáp: Nếu lúc người thực hành giáo pháp diệt mất.

Hỏi: Vì sao soạn ra phần luận này? Đáp: Bởi vì muốn phân biệt nghĩa lý trong kinh. Như trong kinh nói: “Này Ca-diếp-ba! Nên biết rằng pháp và Tỳ-nại-da mà Như Lai đã giác ngộ-đã nói ra, không phải là do Địa giới-Thủy giới-Hỏa giới-Phong giới mà có thể diệt mất, nhưng có một loại Bổ-đặc-già-la sẽ xuất hiện ở thế gian, ham muốn ác-hành động ác, thành tựu pháp ác, không phải pháp nói là pháp, pháp nói là không phải pháp, không phải Tỳ-nại-da nói là Tỳ-nại-da, đối với Tỳnại-da nói là không phải Tỳ-nại-da, loại ấy có thể diệt mất Chánh pháp mà Ta đã tích tập trải qua ba Vô số kiếp làm cho không có gì sót lại.” Trong kinh tuy nói ra điều này mà không phân biệt đến đâu thì nên nói là Chánh pháp còn trú, đến đâu thì nên nói là Chánh pháp diệt mất. Kinh ấy là nơi nương tựa căn bản của luận này, điều gì trong kinh không giải thích, thì nay cần phải giải thích, cho nên soạn ra phần luận này.

Trong này có hai loại Chánh pháp:

  1. Chánh pháp thuộc thế tục.
  2. Chánh pháp thuộc thắng nghĩa.

Chánh pháp thuộc thế tục, đó là Danh-Cú-Văn thân, tức là Tốđát-lãm, Tỳ-nại-da và A-tỳ-đạt-ma. Chánh pháp thuộc thắng nghĩa, đó là Thánh đạo, tức là Căn-Lực-Giác chi-Đạo chi vô lậu.

Người thực hành giáo pháp cũng có hai loại:

  1. Duy trì giáo pháp.
  2. Duy trì chứng pháp.

Duy trì giáo pháp, đó là đọc tụng-giảng giải về Tố-đát-lãm… Duy trì chứng pháp, đó là có năng lực tu chứng Thánh đạo vô lậu. Nếu người duy trì giáo pháp nối tiếp nhau không diệt mất, thì có thể khiến cho Chánh pháp thuộc thế tục tồn tại lâu dài. Nếu người duy trì chứng pháp nối tiếp nhau không diệt mất, thì có thể khiến cho Chánh pháp thuộc thắng nghĩa tồn tại lâu dài, nếu lúc người ấy mất đi thì Chánh pháp sẽ diệt mất. Vì vậy trong kinh nói: “Chánh pháp của Ta không nhờ vào tường vách-cột trụ… mà tồn tại, chỉ nhờ vào hữu tình thực hành giáo pháp nối tiếp nhau mà tồn tại.”

Hỏi: Vì sao Đức Thế Tôn không quyết định nói về thời gian tồn tại của pháp?

Đáp: Bởi vì muốn hiển bày về Chánh pháp tùy theo người thực hành giáo pháp tồn tại lâu hay mau. Nghĩa là người thực hành, nếu thực hành Chánh hạnh luôn luôn như lúc Đức Phật còn tại thế, và như lúc Đức Phật diệt độ chưa lâu, thì Chánh pháp của Đức Phật thường trú giữa thế gian chứ không có diệt mất; nếu không có người thực hành Chánh pháp như vậy, thì Chánh pháp ấy sẽ nhanh chóng diệt mất.

Như Đức Phật bảo với A-nan-đà: “Ở trong pháp và Tỳ-nại-da mà Ta đã nói, nếu như không độ người nữ xuất gia, thì Chánh pháp của Ta sẽ tồn tại một ngàn năm, hoặc là vượt qua số này, bởi vì độ người nữ xuất gia, cho nên khiến Chánh pháp của Ta giảm bớt năm trăm năm.”

Hỏi: Nếu Chánh pháp tồn tại vẫn đủ một ngàn năm, thì tại sao

Đức Thế Tôn nói ra như vậy?

Đáp: Đây là dựa vào ý sâu kín về giải thoát kiên cố mà nói. Nghĩa là nếu không độ người nữ xuất gia thì sẽ trải qua ngàn năm giải thoát kiên cố, mà nay sau năm trăm năm chỉ có Giới-Văn-Đẳng trì kiên cố chứ không phải là giải thoát, đều là sai lầm do độ người nữ xuất gia mà thôi.

Có Sư khác nói: Đây là dựa vào ý sâu kín nếu không thực hành tám pháp tôn trọng(bát kính pháp) mà nói. Nghĩa là nếu độ người nữ xuất gia mà không khiến cho thực hành tám pháp tôn trọng thì Chánh pháp của Đức Phật sẽ giảm bớt năm trăm năm tồn tại, bởi vì Đức Phật khiến họ thực hành tám pháp tôn trọng, cho nên Chánh pháp tồn tại giữa thế gian còn đủ một ngàn năm.

Hỏi: Chánh pháp của Như Lai diệt như thế nào?

Đáp: Lúc Chánh pháp của Như Lai sắp diệt thì châu Thiệm Bộ này sẽ có ba vị vua xuất thế, một vị vua có pháp, hai vị vua không có pháp.

Vị vua có pháp thì sinh ở phía Đông, uy đức-nhân từ, điều phục năm vùng Ấn Độ.

Hai vị vua không có pháp thì sinh ở trong vùng Đạt-tự Miệt-lệ-xa, tánh đều ngang bướng, chê bai ghét bỏ Phật pháp, qua lại với nhau hợp sức xâm lấn. Từ phía Tây xâm chiếm dần dần tiến vào Ấn Độ chuyển đến phía Đông, chí hướng gây ra suy tổn nặng nề cho Phật pháp, hễ đến nơi nào thì phá hủy chùa tháp, giết hại chúng Tỳ kheo, người đa văn-trì giới không có ai tránh được, đốt hết kinh điển không còn sót lại gì.

Lúc ấy vị vua ở phía Đông nghe tin hai vua vùng Đạt-tự Miệt-lệxa ấy, xâm chiếm Ấn Độ dần dần đến phía Đông, liền dẫn đầu binh lính giao chiến với nhau. Quân đội của hai vua kia lập tức rút chạy tán loạn, bắt được hai vua đều đem giết chết. Lập tức sai sứ giả đi khắp mọi nơi, kêu gọi tất cả Sa-môn Thích tử, mời tất cả tập trung ở trong đất nước của Ta, Ta sẽ luôn luôn cung cấp dâng cúng áo quần-ăn uống-đồ nằm-thuốc thang, và những vật dụng cần thiết khác, khiến cho không có thiếu thốn. Thế là tất cả Tỳ kheo vốn có trong châu Thiệm Bộ đều đến tập trung ở đất nước Kiều-hưởng-di. Lúc ấy nhà vua ngày ngày thiết hội cúng dường đủ loại. Nhưng các Tỳ kheo do có được nhiều lợi dưỡng, và do có nhiều người trước đây vì mạng sống mà xuất gia, không có thể tinh tiến chịu khó đọc tụng kinh điển, không thích ở một mình vắng lặng để tư duy, ban ngày thì tụ tập bàn tán về chuyện thế gian ồn ào náo loạn, ban đêm thì mệt mỏi lười nhác say mê ngủ nghỉ, không hề có sự thức tỉnh quán sát, vì vậy đối với tất cả những lời khuyên nhủ chỉ dạy của Đức Phật, thảy đều gạt bỏ mà không thực hành.

Lúc này trong châu Thiệm Bộ có hai người thực hành giáo pháp, một người là A-la-hán tên gọi Tô-lạt-đa, một người là Tam tạng tên gọi Thất-sử-ca, cũng gọi là Bàn Chu, mà làm người đứng đầu chúng. Ngay vào ngày hôm ấy Chánh pháp sắp diệt, vào buổi sáng năm trăm Cư sĩTrưởng giả trong thành Kiều-hưởng-di do nhà vua làm người đứng đầu, cùng lúc xây dựng năm trăm ngôi chùa, bởi vì trước đó nghe tin Chánh pháp sắp diệt, cho nên đưa tay đề nghị rằng: Lúc Đức Phật nhập Niếtbàn đem giáo pháp gởi gắm cho hai Bộ đệ tử, một là hàng tại gia, hai là hàng xuất gia, đừng nói là bây giờ do đệ tử tại gia, không có khả năng cung cấp giúp cho những người xuất gia, khiến thiếu hụt cho nên Chánh pháp diệt mất, chỉ bởi vì hàng đệ tử xuất gia không có Chánh hạnh cho nên khiến Chánh pháp diệt đi.

Có người nói: Như pháp tiếp đãi khách bạn, lúc đầu và về sau đều lo liệu đầy đủ chu đáo; như vậy Chánh pháp lúc bắt đầu xuất hiện và về sau sắp diệt đi, đều làm cho đầy đủ mọi duyên cung cấp cúng dường.

Có người nói: Họ dấy lên nghĩ rằng ngay cả Phật pháp chưa diệt đi thì ở thế gian hãy còn có vô lượng phước điền, nếu Phật pháp diệt đi thì ở thế gian chỉ có hữu lượng phước điền, chúng ta may mắn nhờ Phật pháp chưa diệt đi, nên cùng nhau kịp thời làm những việc cần làm.

Có người nói: Đức Phật Thích-ca lúc còn làm Bồ-tát thấy chư Phật quá khứ, hoặc bởi vì duyên cung cấp thiếu hụt, hoặc bởi vì gặp phải dịch bệnh, khiến cho Chánh pháp diệt đi, lập tức phát nguyện: Nguyện cho tôi thành Phật đừng bởi vì điều này làm cho giáo pháp diệt hết! Vì vậy tuy giáo pháp diệt đi mà duyên cung cấp đầy đủ, trú xứ tăng thêm nhiều.

Đêm ấy, trong chùa làm lễ Bố-tát (bố sái tha), vô lượng Tỳ kheo đều cùng nhau tụ tập, lúc ấy người Duyệt chúng thỉnh cầu người đứng đầu chúng là Tam tạng Thất-sử-ca, vì chúng mà nói về Bát-la-để-mộcxoa. Tam tạng nhận lời mà muốn nói tóm lược. Lúc ấy A-la-hán Tô-lạtđa từ chỗ ngồi mà đứng dậy, trệch áo bày vai phải, đảnh lễ Tam tạng, chắp tay thưa rằng: Chỉ mong Thượng tọa vì chúng mà nói rộng ra. Tam tạng trả lời rằng: Ở trong chúng này ai có thể thực hành đầy đủ Bátla-để-mộc-xoa mà yêu cầu tôi nói rộng ra? A-la-hán nói rằng: Như lúc Đức Phật còn tại thế, các hàng Tỳ kheo đã thực hành đến giới hạn cuối cùng đối với các Học xứ, tôi đều có thể thực hành, nếu như vậy gọi là người có thể thực hành đầy đủ thì mong hãy nói rộng ra cho!