TẠI GIA BỒ TÁT GIỚI KINH GIẢNG LỤC

Tam Tạng Pháp Sư Đàm Vô Sấm dịch Phạn Hán
Thái Hư Đại Sư giảng
Thích Tịnh Nghiêm dịch Hán Việt

 

Phẩm Bốn: Giải thoát

G2. Giải thích liễu nhân

[Giải] Giải thoát, tức là Niết bàn. Kinh Đại Bát Niết Bàn nói đến ba Đức, giải thoát là một trong ba Đức đó. Từ phương diện chứng quả mà nói, quả của ba Thừa gọi là giải thoát. Lại có kinh nói, ba cửa giải thoát, tức là không, vô tướng, vô nguyện. Lại còn có tám giải thoát định, tức là y vào tám loại định mà đặt tên. Lại nữa, trong kinh Hoa Nghiêm, đồng tử Thiện Tài tham kiến năm mươi ba vị thiện tri thức, mỗi vị đều đã chứng đắc được một giải thoát môn. Lại có chỗ dùng “thắng giải” gọi tên là giải thoát. Chữ “giải thoát” trong phẩm này, cũng là chỉ “thắng giải” của ba Thừa, cùng y vào thắng giải mà thành tựu định, tức là cửa có thể chứng đắc giải thoát được gọi là giải thoát, do đây thuộc về “liễu nhân”.

H1. Giải thích tiếp phần trên

– Thiện nam tử! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân tu hạnh Đại bi, phải biết kẻ ấy sẽ được một pháp thể, gọi là giải thoát phần.

[Giải]    Đây là Đức Phật nói tiếp phẩm Đại bi. Nếu có người nam, người nữ có thiện căn, có thể tu tập tâm bi, thì có thể chứng đắc một loại pháp thể, tức là từ thân, miệng, ý tu tập tâm bi mà chứng được giải thoát phần. Phần, nghĩa là chi phần, hoặc nhân phần.

Giải thoát này, ở bậc chân kiến đạo, gọi là vô lậu trí; còn trước bậc kiến đạo, gọi là gia hạnh tuệ và giải thoát tuệ; đối với quả giải thoát, gọi là giải thoát phần. Nếu có thể y theo phẩm Đại bi tu tập tâm bi, ắt có thể chứng đắc giải thoát phần này.

H2. Hỏi đáp làm rõ ý nghĩa
I1. Hỏi ý nghĩa được giải thoát

– Kính bạch Đức Thế Tôn! Cái gọi là pháp thể đó có nghĩa gì?

– Thiện nam tử! Nghĩa là thân, khẩu, ý. Thân, khẩu, ý nầy, từ phương tiện mà có được. Phương tiện có hai loại: một là tai nghe, hai là suy nghĩ. Lại có ba loại: một là bố thí, hai là giữ giới, ba là nghe nhiều Phật Pháp.

[Giải]    Thiện Sinh hỏi Đức Phật: “Cái gọi là pháp thể, lấy pháp nào làm thể?” Đức Phật trả lời dùng thân, miệng, ý làm thể. Phẩm Tu tập nghiệp ba mươi hai tướng, khi biện minh về nghiệp thể, cũng dùng ba nghiệp thân, miệng, ý làm thể. Pháp thể thân, miệng, ý của giải thoát phần, từ phương tiện mà chứng đắc. Phương tiện, có chỗ chỉ cho “thiện xảo”, “quyền xảo”, và cũng có chỗ chỉ cho “công phu dự bị”, đồng nghĩa với chữ “công cụ sắc bén” trong câu “thợ muốn xong công tác, trước phải làm cho công cụ sắc bén” (Hán: công dục thiện kỳ sự, tắc tiên lợi kỳ khí). Ở đây cũng chỉ “công phu dự bị”.

Pháp thể của giải thoát phần, giống như, nhân khi thọ giới làm pháp yết ma, mà đắc giới thể. Ở đây, chứng được pháp thể của giải thoát phần, từ thân miệng ý cũng giống như vậy. Nghe, tức là văn tuệ, suy nghĩ, tức là tư tuệ. Ở đây, pháp thể, do nghe mà thành, tức là văn tuệ; do suy nghĩ mà thành, tức là tư tuệ; lại do tu mà thành, tức là tu tuệ. Muốn được giải thoát phần, cần phải có văn tuệ và tư tuệ.

Lại chia làm ba loại: bố thí, trì giới, đa văn. Bố thí có ba loại: (1) thấy người nghèo khổ mà bố thí, gọi là đại bi thí; (2) vì muốn báo ân mà cúng dường, gọi là báo ân thí; (3) cúng dường các bậc có đức hạnh, như cúng dường Phật, Bồ tát, cùng sư trưởng, Tam bảo, gọi là tôn kính thí. Ba việc này đều có thể phát sinh trí tuệ giải thoát. Nghe nhiều (đa văn) kinh điển Phật giáo, lại đặc biệt có thể phát sinh trí tuệ giải thoát. Ở đây, trí tuệ là liễu nhân, dùng các loại trí tuệ, thấu rõ Phật pháp, chúng sinh pháp, mà làm nhân cho sự phát Bồ đề tâm.

I2. Hỏi cách nào được giải thoát
J1. Biện minh được hay không được giải thoát

– Kính bạch Đức Thế Tôn, như Đức Thế Tôn đã nói, từ ba phương tiện được giải thoát phần. Nếu vậy, ba phương tiện đó có số lượng nhất định không?

– Thiện nam tử! Không có số lượng nhất định. Vì sao? Có người ở trong vô lượng đời, đem vô lượng của cải bố thí cho vô lượng chúng sinh, mà vẫn không được giải thoát phần; lại có người chỉ trong một lần, đem một nắm bột bố thí cho một kẻ ăn mày, mà lại được giải thoát phần. Có người ở nơi vô lượng Phật thọ trì giới luật, mà vẫn không được giải thoát phần; lại có người chỉ trong một ngày một đêm thọ trì tám giới mà lại được giải thoát phần. Có người trong vô lượng đời, ở nơi vô lượng Phật, thọ trì đọc tụng mười hai phần giáo, mà vẫn không được giải thoát phần; lại có người chỉ đọc một bài kệ bốn câu mà lại được giải thoát phần. Vì sao? Vì tâm của tất cả chúng sinh không giống nhau.

Thiện nam tử! Nếu có kẻ không thể nhất tâm quán sát tội lỗi của sinh tử, cùng sự an lạc của Niết bàn, những kẻ như vậy, tuy đầy đủ bố thí, giữ giới, nghe nhiều Phật pháp, chung cuộc cũng không được giải thoát phần. Nếu có thể nhàm lìa tội lỗi của sinh tử, thấy rõ công đức an lạc của Niết bàn, những kẻ như vậy, tuy ít bố thí, ít trì giới, ít nghe Phật pháp, mà vẫn có thể được giải thoát phần.

[Giải]    Thiện Sinh hỏi: “Đầy đủ bao nhiêu bố thí, trì giới, đa văn, thì mới được pháp thể của giải thoát phần?” Đức Phật trả lời: “Không thể định số! Hoặc có người bố thí nhiều mà vẫn không được, hoặc có người bố thí ít mà lại được.” Bát giới, còn gọi là Bát quan trai giới: (1) không sát hại, (2) không trộm cắp, (3) không dâm dục, (4) không nói dối, (5) không uống rượu, (6) thân không thoa hương, không trang sức, (7) không ngồi giường cao rộng, (8) không ca múa, xem nghe; đây là bát giới; (9) quá ngọ không ăn, đây gọi là trai.

Lại có người thọ trì nhiều giới luật mà không được (pháp thể), còn có người ít trì giới mà lại được. Lại có người nghe vô lượng Phật pháp mà không được, còn có người chỉ thọ trì một bài kệ bốn câu mà lại được.

Mười hai phần giáo (còn gọi là mười hai bộ kinh): (1) khế kinh, (2) trùng tụng, (3) phúng tụng, (4) nhân duyên, (5) bổn sự, (6) bổn sinh, (7) vị tằng hữu, (8) thí dụ, (9) luận nghị, (10) tự thuyết, (11) phương quảng, (12) thọ ký.

Có chỗ nói Tiểu thừa chỉ có chín phần giáo, Đại thừa có mười hai phần giáo; có chỗ nói Tiểu thừa có mười một phần giáo, Đại thừa thêm Phương quảng thành mười hai phần; có chỗ nói Đại, Tiểu thừa đều có mười hai phần giáo, điều này thỏa đáng nhất.

Kệ, tiếng Phạn là già đà; một câu hoặc có bốn chữ, hoặc năm chữ, bảy chữ; mỗi câu số chữ đều như nhau, và cứ bốn câu là một bài kệ.

Được giải thoát phần hay không, không phải lấy số lượng nhiều ít làm tiêu chuẩn, mà phải dùng sự dụng tâm khác nhau mà phân biệt. Có người dụng tâm tu hành phước báo nhân thiên, có người dụng tâm cầu giải thoát sinh tử. Kẻ cầu phước báo nhân thiên, tuy bố thí nhiều, trì giới nhiều, nghe nhiều Phật pháp, cũng không được giải thoát phần; kẻ cầu giải thoát sinh tử, tuy ít nghe pháp, ít bố thí, ít trì giới, cũng được giải thoát phần.

Giải thoát phần, tức là nhân để có thể chứng đắc Niết bàn. Niết bàn, tức là quả của sự chân giải thoát. Biết sinh tử là khổ đau, nên mong cầu giải thoát, biết Niết bàn là an lạc, nên mong cầu sự chứng nhập, cho nên được giải thoát phần.

Niết bàn, có người dịch là diệt, hoặc diệt độ, tịch diệt, hoặc viên tịch, nghĩa là tất cả công đức đều viên mãn, tất cả khổ đau đều tịch diệt. Trong ba cõi, sáu nẽo đều không có sự an lạc này, chỉ có giải thoát mới có sự an lạc như vậy

Bởi vậy, những người bình thường tu tâm, thì tâm là quan trọng nhất. Tất cả công đức, nếu như hồi hướng cầu phước báo nhân thiên, tức sẽ không có giải thoát phần. Ngay như người tu niệm Phật, tọa thiền, tuy đã đắc định, nếu như không hồi hướng Bồ đề, giả sử chưa chứng đắc vô lậu tuệ, thì chẳng qua cũng chỉ đắc được thế gian tứ thiền, tứ định mà thôi.

J2. Thời điểm được giải thoát

Thiện nam tử! Hành giả ở trong ba trường hợp có thể được giải thoát phần: một là lúc Phật xuất thế, hai là lúc Bích chi phật xuất thế, ba là nếu không có Phật hoặc Bích chi phật xuất thế, thì lúc vị trời Sắc cứu cánh nói pháp giải thoát, kẻ ấy nghe xong, liền được giải thoát phần.

Thiện nam tử! Ta lúc xa xưa, khi mới phát tâm, đều không gặp Phật hoặc Bích chi phật, nghe trời Tịnh cư nói pháp giải thoát, nghe xong ta liền phát tâm Bồ đề.

[Giải]    Ở đây Đức Phật nói về thời điểm được giả thoát. Phàm khi Đức Phật trụ thế, hoặc lúc Phật pháp lưu hành và kinh điển vẫn còn tồn tại trên thế gian, tức là lúc Đức Phật xuất thế. Lúc không có Phật pháp kinh điển, tức là lúc Duyên giác xuất thế. Duyên giác tuy không độ chúng sinh, nhưng thần thông, uy nghi của ngài cũng có thể dẫn khởi người khác tín ngưỡng mà phát tâm xuất thế.

Trời Sắc cứu cánh (Hán: A ca nị tra), tức là cõi trời cao nhất trong Ngũ bất hoàn thiên, đây là nơi mà các vị tam quả Thanh văn, hoặc các vị Đại Bồ tát sinh lên. Trời Tịnh cư, là tên khác của Ngũ bất hoàn thiên. Tức là lúc Đức Phật còn là thái tử, khi ra khỏi thành du ngoạn, gặp một vị sa môn nói pháp giải thoát, vị sa môn đó là vị trời Tịnh cư hóa hiện. Đây là Đức Phật dùng bổn sinh mà chứng minh.

J3. Hạng người được giải thoát

Thiện nam tử! Pháp giải thoát như vậy, không phải các trời cõi dục có thể chứng được. Vì sao? Vì họ buông lung ngũ dục. Cũng không phải các trời cõi sắc có thể chứng được. Vì sao? Vì không có ba phương tiện Lại cũng chẳng phải chỗ chứng ngộ của trời cõi vô sắc. Vì sao? Vì không thân, khẩu. Mà pháp thể ấy chính là thân, khẩu, ý. Người ở châu Bắc câu lô cũng không chứng được. Vì sao? Vì không có ba phương tiện. Chỉ có ba hạng người được giải thoát phần, tức là Thanh văn, Duyên giác, và Bồ tát. Chúng sinh nếu gặp được thiện tri thức, thì có thể chuyển đổi giải thoát Thanh văn thành giải thoát Bích chi phật, chuyển đổi giải thoát Bích chi phật thành giải thoát Bồ tát. Giải thoát phần của Bồ tát thì không còn thoái chuyển hoặc hư hoại.

[Giải]    Ở đây nói chỉ có cõi người mới có thể chứng được chân kiến đạo. Các vị trời cõi dục giới chỉ biết hưởng thọ khoái lạc, không có ba phương tiện, tức là không có bố thí, trì giới và đa văn. Cõi trời vô sắc không có thân, miệng, mà muốn đạt được giải thoát phần cần phải có thân miệng ý là thể; trời vô sắc thiếu hai, nên không thể được giải thoát phần. Người châu Bắc cu lô phước báo thù thắng, không có phân biệt giàu nghèo, thọ yểu, cũng không có bố thí, trì giới, đa văn, vì họ không cần những phương tiện như vậy.

Ba hạng người, tức là Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát, tức là muốn nói rằng chỉ có loài người mới có thể được Thanh văn giải thoát, Duyên giác giải thoát, và Bồ tát giải thoát. Lại có thể từ thấp chuyển thành cao, nghĩa là từ Thanh văn lên Duyên giác, Duyên giác lên Bồ tát.

I3. Hỏi hành tướng của sự giải thoát
J1. Chánh thức biện minh hành tướng của sự chứng đắc

– Kính bạch Đức Thế Tôn, người thuyết pháp làm thế nào để phân biệt rõ kẻ nào được giải thoát phần, kẻ nào chưa được giải thoát phần?

– Thiện nam tử! Có hai hạng người được giải thoát phần, tức là Bồ tát tại gia và Bồ tát xuất gia. Hai hạng người đó, chí tâm nghe pháp, nghe xong liền thọ trì. Nghe sự khổ của ba đường ác, tâm sinh sợ hãi, lông tóc dựng đứng, nước mắt tuôn trào. Phát lòng kiên quyết thọ trì trai giới, cho đến tội rất nhỏ cũng không dám phạm. Nên biết kẻ ấy là người được giải thoát phần.

[Giải]   Chí tâm, tức là tâm chí thành khẩn thiết. Sau khi nghe liền có thể thọ trì thực hành. Nghe sự khổ của các cõi địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh đều do tạo mười ác nghiệp sát hại, tà dâm, nói dối, v.v…, chiêu cảm, nghe xong liền sinh lòng sợ hãi khóc ròng, trì giới không dám vi phạm. Hạng người này được gọi là có tướng trạng của sự chứng đắc giải thoát phần.

J2. Biện minh bề người được giải thoát
K1. Căn cứ trên năm nẽo biện minh sự giải thoát

Thiện nam tử! Bọn ngoại đạo tuy được định Phi tưởng phi phi tưởng, sống lâu vô lượng kiếp, nếu không được giải thoát phần, nên quán sát bọn họ chỉ là kẻ địa ngục. Lại nếu có người, tuy ở địa ngục A tỳ, lâu vô lượng kiếp, chịu tất cả sự thống khổ khốc liệt nhất, nhưng nếu được giải thoát phần, nên quán sát kẻ ấy như người cõi Niết bàn. Thiện nam tử! Vì thế ta đối với ông Uất Đầu Lam Phất sinh tâm thương xót, còn đối với Đề Bà Đạt Đa thì không lo lắng gì cả.

[Giải]    Ngoại đạo được quả báo, tuy ở cõi trời cao nhất là Phi tưởng phi phi tưởng, thọ mạng tám vạn đại kiếp, thế nhưng khi phước báo hết, vẫn bị luân hồi, khó tránh đọa xuống địn ngục. Cho nên quán xét họ chỉ là những chúng sinh ở địa ngục. Trái lại kẻ đang ở trong địa ngục nhưng đã từng có đủ ba phương tiện giải thoát, đã có thể được giải thoát phần, cho nên quán xét kẻ ấy là người cõi Niết bàn.

Uất Đầu Lam Phất là người tu cao nhất trong bọn ngoại đạo. Đức Phật sau khi đắc đạo, muốn độ ông ta, nhưng ông ta đã sinh lên cõi trời Phi tưởng phi phi tưởng. Đức Phật quán sát, biết đời sau ông ta sẽ bị đọa làm súc sanh, sau đó sẽ bị đọa vào địa ngục, cho nên thương xót. Oâng Uất Đầu Lam Phất từng ở bên bờ suối tu định, bị chim, cá quấy rầy, cho nên khởi ác tâm, nguyện sinh là rái cá để giết hại chim, cá, dẫn đến quả báo tương lại đọa súc sanh, địa ngục.

Đề Bà Đạt Đa, dịch là Thiên Thọ, tuy đọa địa ngục, trong kinh Pháp Hoa, phẩm Đề Bà Đạt Đa, Đức Phật thọ ký cho ông ta thành Phật, cho nên tuy ở địa ngục, nhưng đã có đầy đủ giải thoát phần.

K2. Căn cứ trên ba Thừa biện minh sự giải thoát

Thiện nam tử! Như ông Xá Lợi Phất, trong sáu vạn kiếp cầu đạo Bồ đề. Sở dĩ bị thoái chuyển là vì chưa được giải thoát phần. Dù thế, căn cơ vẫn còn hơn hàng Duyên giác lợi căn.

Thiện nam tử! Giải thoát phần có ba bậc, hạ, trung và thượng. Bậc hạ là Thanh văn, bậc trung là Duyên giác, bậc thượng tức là chư Phật.

Thiện nam tử! Có kẻ chuyên cần cầu giới ưu bà tắc, trong vô lượng kiếp, tuy y như điều đã nghe mà thực hành, mà vẫn không được giới. Có kẻ xuất gia cầu giới Tỳ khưu, giới Tỳ khưu ni, trong vô lượng kiếp, y như điều đã nghe mà thực hành, mà cũng chẳng được giới. Vì sao? Vì không được giải thoát phần. Họ chỉ có thể gọi là tu tập giới luật, mà không thể gọi là nghiêm trì giới luật.

Thiện nam tử! Nếu các vị Bồ tát được giải thoát phần, không còn tạo nghiệp cầu sinh ba cõi, mà thường nguyện sinh vào nơi nào có thể làm được lợi ích cho chúng sinh. Nếu biết chắc mình có nghiệp sinh về cõi trời, liền hồi hướng nghiệp ấy cầu sinh cõi người. Nghiệp ấy chính là bố thí, trì giới và tu định.

Thiện nam tử! Nếu Thanh văn được giải thoát phần, không quá ba đời sẽ được giải thoát. Bậc Bích chi phật cũng thế. Các vị Bồ tát được giải thoát phần, dù trải qua vô lượng thân, nhưng luôn luôn không thoái chuyển. Tâm không thoái chuyển nầy, vượt quá tất cả Thanh văn, Duyên giác.

Thiện nam tử! Nếu được giải thoát phần như vậy, tuy ít bố thí mà vẫn được vô lượng quả báo. Ít trì giới, ít nghe pháp cũng giống như vậy. Kẻ ấy giả sử ở trong ba đường ác, cũng không giống như chúng sinh ở trong ba cõi ấy thọ khổ. Nếu các vị Bồ tát được giải thoát phần như vậy thì được gọi là Điều nhu địa. Vì sao gọi là Điều nhu địa? Vì tất cả phiền não từ từ trở nên yếu thế. Cũng được gọi là ngược dòng sinh tử.

Thiện nam tử! Có bốn hạng người: một là thuận dòng sinh tử, hai là nghịch dòng sinh tử, ba là không thuận không nghịch, bốn là đến bờ bên kia.

Thiện nam tử! Giải thoát phần nầy, đối với hàng Thanh văn, gọi là Nhu nhuyễn địa; đối với Bồ tát cũng gọi là Nhu nhuyễn, lại gọi là Hoan hỉ địa. Vì nghĩa nào mà gọi là Hoan hỉ địa? Vì nghe Pháp nên không thoái chuyển. Lại còn gọi là Bồ tát chân thực. Vì nghĩa nào mà gọi là Bồ tát chân thực? Vì thường làm cho chúng sinh sinh tâm giác ngộ. Các vị Bồ tát đó, tuy biết rõ sách vở ngoại đạo, tự mình không thọ trì, cũng không dạy cho kẻ khác. Họ không được gọi là người hoặc trời, cũng không thuộc vào năm nẻo. Đây gọi là tu hành đạo không chướng ngại.

[Giải]    Xá Lợi Phất, dịch là Thu Tử, là đệ tử Phật, nhân vì đã tu được Đại thừa thắng giải, tuy bị thoái chuyển, nhưng vẫn còn hơn hàng Duyên giác.

Kẻ chưa được giải thoát, trong giới luật, chỉ là kẻ tu tập giới luật, mà không phải là kẻ trì giới (tức là định cộng giới, đạo cộng giới).

Nghiệp có thể phân làm nghiệp thiện, nghiệp ác, hữu lậu, vô lậu. Ở đây không tạo nghiệp của ba cõi mà tu nghiệp vô lậu, tức là nghiệp bố thí, trì giới và đa văn.

Cõi người dễ hóa độ, cho nên hồi hướng nghiệp cõi trời, nguyện sinh vào cõi người.

Bậc Tu đà hoàn,  nếu được giải thoát phần, chỉ cần trải qua ba lần thọ thân sinh tử sẽ được Niết bàn, không cần phải bảy lần. Cần phải qua bảy lần sinh tử là nói kẻ căn tính ám độn.

Do vô tướng bố thí mà được phước đức không thể nghĩ bàn, cho nên Đề Bà Đạt Đa ở địa ngục, A Nan hỏi ông ta có bị khổ hay không, ông ta trả lời: “Cảm thấy sung sướng như đang ở cõi Tam thiền”. Đây là do vì ông ta có công đức thù thắng.

Điều nhu địa, tức là thắng giải hành địa, hoặc là lên Sơ địa. Trong đây, bốn loại người: (1) kẻ phàm phu, thuận dòng sinh tử; (2) hàng Nhị thừa, ngược dòng sinh tử; (3) hàng Bồ tát, không thuận không nghịch; (4) bậc đến bờ bên kia, tức là Phật, dùng công đức diệu dụng của Niết bàn độ hóa chúng sinh.

Hoan hỷ địa, tức là Sơ địa. Từ địa này trở xuống, gọi là Bồ tát giả danh, từ địa này trở lên, gọi là Bồ tát thực nghĩa.

Giác ngộ chúng sinh, cho nên gọi là Bồ đề tát đỏa.

Tuy biết kinh điển ngoại đạo, nhưng không thọ trì, cũng không dạy cho kẻ khác, mà chỉ thọ trì Phật pháp, và dạy Phật pháp cho kẻ khác.

J3. Gây tạo hạt giống Bồ đề

Thiện nam tử! Tâm Bồ Đề có bốn hạt giống: một là không tham của cải, hai là không tiếc thân mệnh, ba là tu hạnh nhẫn nhục, bốn là thương xót chúng sinh.

Thiện nam tử! Có năm việc làm tăng trưởng hạt giống Bồ Đề: một là không nên tự khinh, cho rằng mình không thể được quả Vô thượng Chính đẳng Chính giác; hai là thọ khổ, tâm không hối hận; ba là siêng năng tu hành, chưa từng ngơi nghỉ; bốn là cứu vớt chúng sinh đang chịu vô lượng khổ não; năm là thường ca ngợi công đức vi diệu của Tam bảo. Người trí khi tu tập tâm Bồ đề, thường nên tu tập năm việc trên. Lại có sáu pháp làm cho hạt giống Bồ đề nẩy nở tốt tươi, tức là Bố thí Ba la mật, cho đến Bát nhã Ba la mật. Sáu pháp Ba la mật nầy, do vì một việc mà được tăng trưởng, đó là sự không phóng dật. Bồ tát nếu phóng dật, sẽ không tăng trưởng sáu pháp Ba la mật nầy. Nếu không phóng dật thì sẽ tăng trưởng.

Thiện nam tử! Bồ tát khi cầu Bồ đề, lại có bốn việc: (1) một là gần gũi bạn lành, (2) hai là tâm bền chắc không lay chuyển, (3) ba là có thể làm những hạnh khó làm, (4) bốn là thương xót chúng sinh. Lại có bốn việc: (5) một là thấy người khác được lợi ích, tâm sinh vui mừng; (6) hai là thường vui vẻ khen ngợi công đức người khác; (7) ba là thường thích tu tập pháp lục niệm; (8) bốn là siêng nói đến lỗi lầm của sinh tử.

Thiện nam tử! Thật là phi lý nếu có người nói rằng không có tám pháp nầy mà được Bồ đề.

Thiện nam tử! Bồ tát khi vừa phát tâm Vô thượng Bồ đề, liền được gọi là ngôi phúc điền vô thượng. Vị Bồ tát đó đã vượt lên tất cả sự vật thế gian và tất cả chúng sinh.

[Giải]    Bốn hạt giống, tức là tâm Đại bi; tu bốn hạt giống này, tức là tu tập tâm Đại bi. Lại nữa, người tu có năm việc, sáu việc, có thể làm tăng trưởng hạt giống này. Thế nhưng, sáu ba la mật cần một hạnh “không phóng dật” để tăng trưởng.

Bạn lành, tức là chư Phật, Bồ tát.

Lục niệm, tức là niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm giới, niệm thiên và niệm tử (niệm vô thường).

Tám pháp, hợp hai loại bốn việc, thành tám pháp.

Sơ phát tâm Bồ đề, trên phương diện lý tính, không khác biệt với chư Phật, cho nên được gọi là “ngôi phước điền vô thượng”.

J4. Biện minh Phật đạo khó được

Thiện nam tử! Tuy có người nói rằng trong vô lượng thế giới có vô lượng Phật, nhưng Phật đạo rất khó thành tựu. Vì sao? Thế giới vô biên, chúng sinh vô biên, chư Phật cũng vô biên. Giả sử Phật đạo dễ thành, một Đức Phật Thế Tôn, phải nên hóa độ tất cả chúng sinh. Nếu như vậy, thế giới và chúng sinh đều có hạn lượng.

Thiện nam tử! Lúc Đức Phật ra đời, có thể độ chín vạn chín na do tha người; mỗi một vị đệ tử Thanh văn của Phật độ một na do tha chúng sinh, mà số chúng sinh vẫn không thể độ hết được, vì thế gọi là vô biên. Do đó, trong kinh Thanh văn, ta nói không có mười phương chư Phật. Vì sao? Vì sợ các chúng sinh xem thường Phật đạo. Thánh đạo của chư Phật, không bị bao hàm trong các pháp thế gian. Bởi vậy, lời của Như Lai không phải hư vọng. Như Lai không có tâm ghen ghét. Chỉ bởi vì Phật đạo khó thành, nên nói là không có chư Phật ở mười phương.

Thiện nam tử! Vô lượng chúng sinh phát tâm Bồ đề, mà không thể tu hành thành tựu đạo Bồ tát. Nếu có người hỏi: Nếu hiện tại có vô lượng chư Phật, tại sao trong kinh chỉ nói hai đời quá khứ và vị lai có vô lượng Phật, mà không nói hiện tại có vô lượng Phật?

Thiện nam tử! Ta nói trong một quốc độ, đời quá khứ và vị lai có vô lượng Phật, còn đời hiện tại chỉ có một Đức Phật mà thôi.

Thiện nam tử! Kẻ nào thấu rõ nghĩa chân thực sẽ thành tựu Phật đạo. Tuy vô lượng chúng sinh tu hành Phật đạo, phần lớn đều thoái chuyển. Nếu có một người thành tựu giải thoát, kẻ đó hiếm có, như hoa Yêm la kết trái, và như trứng cá biến chuyển thành cá lớn.

[Giải]    Ở đây muốn nói Phật quả không dễ thành tựu. Nếu Phật quả dễ thành, tức là chúng sinh sẽ có sự cùng tận, và thế giới cũng là hữu biên. Na do tha, dịch là ức. Phật và các đệ tử, có thể độ nhiều chúng sinh như thế, mà sôá chúng sinh chưa được độ vẫn là không thể cùng tận; chứng tỏ Phật đạo khó thành, (sợ chúng sinh coi thường Phật).

Từ lý niệm “Phật không bị bao hàm trong pháp thế gian”, nên nói mười phương thế giới không có Phật.

Kẻ phát tâm Bồ đề tuy nhiều, nhưng kẻ thoái tâm đọa lạc cũng nhiều, do đó trải qua một thời gian lâu xa mới có một người thành Phật.

Các kinh như Tam Thiên Phật Danh, không nói hiện tại có nhiều Phật, là căn cứ vào Tiểu thừa mà nói; kỳ thực, hiện tại có rất nhiều Phật đang trụ thế.

Cây Yêm la, hàng ngàn hàng vạn hoa mới kết thành một hai quả, loài cá cũng vậy, phải cần hàng ngàn hàng vạn quả trứng mới nở được một hai con cá; ví dụ phát tâm tuy nhiều mà thành Phật thì rất ít, mới biết rằng thành Phật là một điều khó khăn quý báu.

J5. Hiển rõ sự thù thắng của Bồ tát tại gia

Thiện nam tử! Bồ tát có hai loại, một là tại gia, hai là xuất gia. Bồ tát xuất gia được giải thoát phần, điều đó không khó. Bồ tát tại gia được giải thoát phần, điều nầy rất khó. Vì sao? Vì kẻ tại gia bị nhiều ác duyên ràng buộc.

[Giải]    Ở đây nêu rõ người tại gia bị nhiều ác nhân duyên ràng buộc hơn người xuất gia, cho nên nói người xuất gia được giải thoát phần không khó, còn người tại gia nếu được giải thoát phần thì thực là một điều vô cùng khó khăn quý báu.