Phật Thuyết
ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM
THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC KINH GIẢI DIỄN NGHĨA
QUYỂN 3
Hòa thượng Tịnh Không chủ giảng
Diệu Âm Phổ Hạnh kính ghi và đúc kết
Phật lịch 2567 -2023
TIỂU SỬ ĐẠI LÃO HÒA THƯỢNG TỊNH KHÔNG
Hòa Thượng thượng Tịnh hạ Không sinh tháng hai năm 1927, thế danh là Từ Nghiệp Hồng, tại huyện Lư Giang, tỉnh An Huy (Trung Quốc). Ban sơ, lúc mười sáu tuổi, Ngài theo học triết học với giáo sư Phương Đông Mỹ (Dong Mei Fang); về sau học Phật với Đại sư Chương Gia (Zhang Jia), một cao tăng Mật tông thời bấy giờ, và cư sĩ Lý Bỉnh Nam (Lee Bing Nan). Cả ba thầy đều là bậc rất khó được.
Theo cố Hòa Thượng Thích Như Huệ ở Úc Châu, “Hòa Thượng Tịnh Không là một danh tăng của Phật Giáo thế giới, người có công phát triển Phật Giáo phương Tây. Những bài thuyết giảng của Ngài rất thực tế và gần gũi với người đệ tử Phật”.
Theo Đại đức Thích Tâm An trong “Phật Giáo là gì?” có giới thiệu sơ lược về Hòa Thượng Tịnh Không như sau: “Ngài thông Tông, thông Giáo, thâm nhập thực tiễn khế lý, khế cơ, thâm đắc thuyết pháp tam-muội”.
Sau khi thọ giới cụ túc lúc ba mươi ba tuổi, Ngài chu du khắp nơi trên thế giới, giảng kinh thuyết pháp. Trước sau đã giảng rất nhiều kinh như: Kinh Hoa Nghiêm, Kinh Pháp Hoa, Kinh Lăng Nghiêm, Kinh Viên Giác, Kinh Bát Nhã, Đại Thừa Khởi Tín luận, Đại Trí Luận, Tịnh Độ Ngũ Kinh v.v… liên tục suốt gần sáu mươi năm giảng kinh thuyết pháp chưa bao giờ mỏi mệt, chưa bao giờ ngừng nghi. “Sống một ngày, giảng một ngày”, đây là mục tiêu của Ngài. Thật là hiếm có! Việc rất khó được mà Ngài đã làm được.
Ngài là người tiên phong trong việc sử dụng hệ thống truyền thanh, đài truyền hình, truyền hình vệ tinh, mạng lưới thông tin toàn cầu, dùng phương tiện truyền thông hiện tại để truyền bá chánh pháp, đẩy mạnh nền giáo dục Phật Đà: Phật Giáo không phải là tôn giáo mà là nền giáo dục chí thiện, tối cao nhất của Phật Đà đối với cửu pháp giới chúng sinh.
Đại đức Thích Nguyên Tạng, thành viên của Giáo hội Phật Giáo Việt Nam thống nhất tại Úc Đại Lợi, Tân Tây Lan trong quyển “Pháp ngữ của Hòa Thượng Tịnh Không” đã vô cùng tán dương: “Hòa Thượng Tịnh Không là người đã thực hành Pháp cúng dường một cách chí tâm, tha thiết, nếu không muốn nói là Ngài đã thành tựu viên mãn về việc làm này trong mấy thập niên qua. Ngài đã cố gắng thực hiện ‘cúng dường Pháp’ bằng cách thành lập nhà xuất bản Phật Đà ở Đài Loan và ấn tống miễn phí toàn bộ kinh điển của Phật Giáo, không những là kinh sách tiếng Hoa mà Hòa Thượng còn cho in nhiều ngôn ngữ khác như: Anh, Pháp, Việt v.v… để giúp nhiều sắc tộc khác dễ dàng lãnh hội được ánh sáng của Chánh Pháp”. Theo Hòa Thượng Tịnh Không, kinh sách phải được in thật đẹp và trang nhã nhằm tạo nên sự thu hút cho người học Phật trong thời đại hiện nay.
Phỏng theo tài liệu trong “Phật thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ, Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh” giảng giải của Hòa Thượng Tịnh Không, do Vọng Tây cư sĩ cẩn dịch thì: “Mấy chục năm qua, Hòa Thượng Tịnh Không đã phát tâm tái bản, ấn tống các loại kinh Phật và sách thiện của nhà Nho v.v… lên đến hơn mười triệu cuốn” như: Đại Tạng Kinh, Liễu Phàm Tứ Huấn, An Sĩ Toàn Thư, Tứ Khố Toàn Thư, Tứ Khố Hội Yếu, Quần Thư Trị Yếu của Đường Thái Tông v.v…, gửi tặng các trường Đại học, các Phật Học Viện, các cơ sở Phật giáo trên toàn thế giới, không phân biệt sắc thái chủng tộc. Chủ trương của Ngài là xiển dương Phật pháp Đại thừa, phá trừ mê tín, phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui, nhất định phải đem Phật Giáo trở về với giáo dục, khai phát trí tuệ khiến mọi người hiểu được chân vọng, chánh tà, đạt đến mục đích cứu cánh: Một đời giải thoát, một đời viên mãn thành tựu.
Cũng theo tài liệu của Cư Sĩ Vọng Tây:
*Năm 1985, Hòa Thượng định cư tại Hoa Kỳ. Thời gian hoằng pháp trên đất Mỹ, Ngài đã có sự cống hiến rất nổi bật trên phương diện đoàn kết chủng tộc, đoàn kết tôn giáo, nâng cao đạo đức con người khiến xã hội được an định.
*Tháng 8 năm 1995, Ngài được tiểu bang Texas và thành phố Dallas, Hoa Kỳ phong tặng “Công Dân Danh Dự” của tiểu bang và “Công Dân Danh Dự” của thành phố. Hòa Thượng đã từng được mời đến thuyết giảng tại các trường Đại học như Đại học Lý Công Tân Gia Ba, trường Đại học tiểu bang Maine ở Mỹ, trường Đại học Deanza-College ở tiểu bang Texas, trường Đại học Hawaii. Các trường Đại học ở Úc châu tại tiểu bang Melbourne, Sydney, Queensland v.v… Ở các nước Á châu như: Trường Đại học Phụ Nhân Đài Loan, Đại học văn hóa Trung Quốc, Đại học Thành Công, Đại học Trung Sơn v.v… Gót chân Ngài đến đâu đều quy tụ rất đông thính chúng đến để học tập, được nghe Pháp âm của Ngài. Pháp duyên của Hòa Thượng rất thù thắng được tứ chúng đệ tử khắp nơi hết lòng ủng hộ.
*Năm 1995, tại Cư Sĩ Lâm Phật Giáo Tân Gia Ba, Ngài đã chỉ đạo sáng lập lớp Bồi Huấn Nhân Tài Hoằng Pháp. Trên ba năm ở Tân Gia Ba, Ngài đã chủ động đi thăm viếng các đoàn thể tôn giáo, đặc biệt Ngài đã đoàn kết được chín tôn giáo lớn ở Tân Gia Ba, tham gia trợ giúp các từ thiện xã hội.Ở Úc châu, Ngài đã tham gia diễn đàn tôn giáo, trợ giúp trường Đại học Griffıth thành lập “Trung tâm văn hóa Đa Nguyên”, trợ giúp Đại học Queensland thành lập “Học viện nghiên cứu giải quyết xung đột và hòa bình”.
*Tháng 5 năm 2000, nhận lời mời của Cục Tôn Giáo Trung Quốc, Ngài cùng những lãnh tụ của chín đại tôn giáo ở Tân Gia Ba, đi thăm viếng các đoàn thể tôn giáo Trung Quốc, xây dựng mối quan hệ thân thiện.
*Tháng 1 năm 2001, tại Úc châu, Ngài bắt đầu dự bị xây dựng Tịnh Tông Học Viện, bồi dưỡng, đào tạo nhân tài hoằng pháp; tính đến nay đã hoàn tất trên mười năm.
*Tháng 5 năm 2002, trường Đại học Griffith thỉnh mời Hòa Thượng làm “Giáo sư Danh Dự”. Đến tháng sáu, Đại học Queensland lại mời Hòa Thượng làm giáo sư khách tọa và được thành phố Toowoomba phong tặng “Công Dân Danh Dự” của thành phố.
*Giữa tháng 8 năm 2002, trường Đại học Griffıth (Úc châu) phong tặng Hòa Thượng “Tiến Sĩ Danh Dự”.
*Tháng 7 năm 2003, với chức phận giáo sư đại biểu trường Đại học Griffıth đến Thái Lan tham gia “Hội nghị Hòa Bình thế giới của Liên Hiệp Quốc”.
*Tháng 4 năm 2004, Đại học Queensland Úc châu phong tặng “Tiến Sĩ Danh Dự”.
*Tháng 6 năm 2004, Bộ tôn giáo Indonesia tổ chức thành đoàn phỏng vấn lãnh tụ tôn giáo, thỉnh mời Ngài làm “Cố vấn Danh Dự”, đi thăm viếng Ai Cập, Ý Đại Lợi, và Vatican trong tinh thần giao lưu, tìm hiểu giữa tôn giáo, tiến đến sự hài hòa cùng xây dựng ý thức chung.
*Tháng 8 năm 2004, Đại học Châu Lập Islam giáo
Indonesia phong tặng “Tiến sĩ Danh Dự”. Cũng trong tháng này, Hòa Thượng được mời tham gia “Hội nghị Quốc Tế” do Liên Hiệp Quốc Giáo Khoa Văn tổ chức cử hành tại Okayama, Nhật Bản để phát biểu chuyên giảng đề tài.
*Tháng 6 năm 2005, do sự tích cực cống hiến, đẩy mạnh nền văn hóa đa nguyên, tôn giáo hài hòa, liên hệ đoàn kết chủng tộc và nỗ lực hoàn thiện công việc giáo dục thế giới, nữ hoàng Anh Quốc đã kính tặng Ngài huân chương AM.
Phỏng theo tài liệu của Ban biên dịch Tịnh Không Pháp Ngữ: Trong nhiều năm qua Hòa Thượng thượng nhân đã đề xướng hoạt động Tế Tổ tại các quốc gia trên thế giới, phát khởi đề cao hiếu đạo của con người, thực hiện truyền thống tốt đẹp “uống nước nhớ nguồn”.
*Năm 2013, Hiệp Hội Giáo Dục Phật Đà Hồng Kông tổ chức pháp hội Tế Tổ Đông Chí tam thời hệ niệm tại trung tâm triển lãm quốc tế Á Châu. Kể từ đó, vào mỗi dịp tiết Thanh Minh, Trung Nguyên, Đông Chí đều cử hành đại lễ Tế Tổ kiền thành chí kính.
*Tháng 6-2016, nước Anh lần đầu tiên tổ chức đại lễ Tế Tổ cùng Pháp hội Tam thời hệ niệm, dùng cổ lễ của Trung Quốc tế tự tổ tiên vạn họ của các dân tộc trên toàn thế giới. Đại diện cho nước Anh là Hiệu trưởng Hyghes của đại học xứ Wales đảm nhiệm chức vị quan chủ tế tại đại lễ Tế Tổ. Từ đó, mỗi năm tại Luân Đôn và Lampeter đều cử hành đại lễ Tế Tổ.
-Để hoằng dương giáo dục Hán học, bồi dưỡng nhân tài giảng dạy, nhiều năm qua Hòa Thượng Thượng nhân đã đề xướng, hướng dẫn thành lập Hán học viện tại nhiều nơi, nhằm kế thừa tuyệt học, truyền thống văn hóa.
*Tháng 7-2016, đại học Wales Trinity Saint David chính thức thành lập Hán Học Viện Anh Quốc.
*Tháng 9-2016: Nhận lời mời của Phó Hiệu trưởng – Giáo sư Nick Rawllins của đại học Oxford. Hòa Thượng có viếng thăm hữu nghị đại học Oxford. Cũng trong năm đó, trường đại học Wales Trinity Saint David ở nước Anh đã trao Hòa Thượng học vị Tiến sĩ nhân văn và chức vị Giáo sư danh dự.
*Tháng 3-2017, chín vị đại sứ của tổ chức UNESCO cùng
Phó Hiệu trưởng trường đại học Oxford và khách mời của các quốc gia đã đến Úc Châu tham quan khảo sát mô hình thành phố Toowoomba hài hòa đa nguyên văn hóa. Trong chuyến viếng thăm nầy, các đại sứ đích thân cảm nhận được lý niệm đoàn kết tôn giáo đa nguyên mà Hòa Thượng thượng nhân đã thực hiện trong suốt mười bảy năm qua tại Toowoomba, xác thực có thể mang lại nền hòa bình cho nhân loại. Họ đã đồng lòng ký vào đơn đề xuất UNESCO lập đồ án thành lập một văn phòng làm việc lâu dài cho Hòa Thượng thượng nhân. Sau đợt khảo sát của ban thẩm định tổ chức UNESCO, văn phòng làm việc đã được chính thức thành lập vào tháng 9.
*Ngày 7-9-2017, nhận lời mời của Thái tử Charles, Ngài đã đến thăm trang viên của Thái tử tại East Ayshire – Scotland. Thái tử đã biểu thị sự cảm động sâu sắc trước sự viếng thăm từ nơi xa xôi của Đại lão Hòa Thượng.
*Ngày 25-9-2017, Hội Hữu Nghị Tịnh Không thuộc tổ chức UNESCO chính thức khai trương thành lập tại Paris (Pháp). Hòa Thượng thượng nhân đảm nhận chức chủ tịch danh dự lâu dài. Từ đó, cánh cửa của Hội Hữu Nghị Tịnh Không chính thức đã khai trương, chứng minh rằng phương pháp và lý niệm hài hòa của Hòa Thượng Ân Sư đã chỉ đạo thực hành trong mấy chục năm qua đã chính thức được UNESCO công nhận, thúc đẩy nên hòa bình thế giới.
*Ngày 26-9-2017, Hòa Thượng đã đọc bài diễn văn phát biểu tại UNESCO, khuyên mọi người từ bỏ cạnh tranh, đấu tranh, chiến tranh thì nhân loại sẽ được phước báo vô cùng tận.
*Năm 2018, với độ tuổi 92, Hòa Thượng vẫn đến Singapore tham gia hội nghị giao lưu văn hóa đa nguyên.
-Tháng 5, Hòa Thượng tham dự lễ Tế Tổ hiếu thân báo ân tại Nhật Bản, theo lời mời của vợ chồng nguyên thủ tướng Nhật Bản – Tiên sinh Yukio.
-Tháng 6, Hội Hữu Nghị Tịnh Không thuộc tổ chức UNESCO, trụ sở ở Paris (Pháp) đã cử hành pháp hội tam thời hệ niệm, cầu nguyện thế giới hòa bình.
*Tháng 8, Tại Luân Đôn và Lampeter, nước Anh đã cử hành đại lễ Tế Tổ hiếu thân báo ân, đồng thời thúc đẩy sự giao lưu văn hoá giữa Đông và Tây, xây dựng mối quan hệ thân thiện hài hòa giữa nhân dân các quốc gia trên toàn thế giới.
*Tháng 9, trụ sở chính của UNESCO tổ chức đại hội hòa bình quốc tế trong ba ngày. Đây là lần đầu tiên Hội Hữu Nghị Tịnh Không phối hợp cùng tổ chức hội nghị hòa bình với chủ đề “Thần Ái Thế Nhân”. Đại hội nầy quy tụ sức mạnh của các nhân vật yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới, đồng tâm hiệp lực xây dựng quê hương hài hòa trên địa cầu với tên gọi “Trong bạn có tôi, trong tôi có bạn”.
* Tết năm 2019, Hòa Thượng Ân Sư đã ghé thăm chùa Cực Lạc, Đài Nam cùng với các quan khách từ Trung Quốc đại lục và các nơi trên thế giới cùng nhau đón tết Kỷ Hợi. Tứ chúng đệ tử dùng hình thức nghệ thuật của quốc nhạc, kịch nghệ v.v. biểu đạt tấm lòng tri ân và chúc mừng sáu mươi năm hoằng pháp của Hòa Thượng Ân Sư.
Quay nhìn lại chặng đường sáu mươi năm hoằng pháp của Hòa Thượng, Ngài trước sau đều ghi nhớ và thực hành nghiêm túc giáo dục của Phật Đà và lời dạy của Thầy. Ngài luôn là biểu hiện của tấm gương “thân hành ngôn giáo”, của “Học vi nhân sư, hành vi thế phạm”. Ngài luôn sâu sắc cảm nhận được ý nghĩa của câu nói: “Học Phật là sự hưởng thụ cao nhất của đời người”. Nguồn gốc của sự hưởng thụ này là bắt nguồn từ việc thực thi lời dạy của Thầy Ngài là “nhìn thấu buông xuống, chí thành cảm thông”.
Mỗi khi nhìn đến nụ cười của Hòa Thượng Ân Sư, chúng ta như vơi bớt đi một phần gánh nặng của phàm tục, tạp niệm tiêu tan.
Đại lão Hòa Thượng Ân Sư giống như đóa sen thanh tịnh, mộc mạc, giản đơn mà vô vàn tỏa khắp, hương thơm này bay khắp mười phương. Ngài là bậc trưởng lão hòa nhã, dễ gần, với tấm lòng từ bi biến pháp giới, thiện ý mãn Ta Bà.
Điểm đặc sắc của đời Ngài có ba việc: Không quản tiền, không quản người, không quản việc, tất cả đều tùy duyên mà không phan duyên, chỉ thuần “hoằng pháp lợi sinh”, đẩy mạnh truyền thống văn hóa giáo dục. Trên năm mươi năm không xem truyền hình, báo chí, luôn bảo trì tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng, tâm giác ngộ. Có thể nói Ngài là “Thế Giới Đệ Nhất nhân”, không có người thứ hai trong thời đại mạt pháp.
Để bổ túc thêm vào phần tiểu sử của Hòa Thượng, xin được tóm tắt nêu ra một ít về lời giới thiệu của Hòa thượng Thích Nhuận Nghi (chùa Từ Đức, Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, Việt Nam) trong “Tịnh Không Pháp Sư gia Ngôn Lục”, tập một, như sau:
“Trong quá trình phiên dịch, tôi nhận thấy những lời dạy của Hòa Thượng đã đánh thức tôi rất nhiều trên con đường hành trì tu học Phật pháp, như kim chỉ nam quán chiếu lại mình để tu tập, nhằm chuyển hóa những tập khí vô minh từ nhiều đời, và tôi đã vừa dịch vừa đọc, nghiền ngẫm như vậy trong suốt sáu năm… ”. Phần sơ lược tiểu sử của Hòa Thượng, sách này cũng nêu ra: “Hòa Thượng Tịnh Không đã quyên tặng xây dựng trên một trăm trường học tình thương và nhiều quỹ dành cho giáo dục, y tế trên toàn cầu, in ấn hàng triệu bản kinh sách, băng đĩa v.v… Ngài luôn tôn trọng đề cao tất cả pháp môn, nhưng đặc biệt xiển dương tông Tịnh Độ”.
Vì vậy, Ngài chủ trương khuyến tấn hành giả tu theo pháp môn Niệm Phật A Di Đà. Ngài nhấn mạnh: Phật pháp không phải là mê tín. Phật pháp là Giác-Chánh-Tịnh: Giác là không mê; Chánh là không tà, Tịnh là không nhiễm. Tuy tuổi đã cao nhưng vẫn ngày ngày giảng pháp bốn tiếng đồng hồ trên đài truyền hình vệ tinh, phục vụ cho những ai hữu duyên học Phật. Ngài thường nhắc nhở người học Phật: Muốn đạt công phu lợi ích chân thật trên con đường hành trì tu học, phải luôn ghi nhớ câu: “Chân thành, Thanh tịnh, Bình đẳng, Chánh giác, Từ bi, Nhìn thấu, Buông xả, Tự tại, Tùy duyên, Niệm Phật”.
Ngài cũng thường nhắc nhở người tu: Học Phật cần phải tránh“Tự tư tự lợi, danh văn lợi dưỡng, ngũ dục lục trần, tham sân si mạn”.
Ngài đúng là một vị cao tăng, đại từ bi, đại trí tuệ của Phật giáo đương đại.
Ngày 26-7-2022, Ngài đã thu thần viên tịch lúc hai giờ sáng tại chùa Cực Lạc; Đài Nam, Đài Loan, trụ thế chín mươi sáu tuổi. Nhục thân Ngài được di quan và trà tỳ tại chùa Đại Tiên. Sau đó xá lợi nhục thân của Hòa Thượng được an phụng tại chùa Cực Lạc.
Xá lợi của Hòa Thượng có rất nhiều, nhưng nổi bật nhất là ba dạng xá lợi:
– Thứ nhất là xá lợi lưỡi màu trắng rất đẹp, có hình dạng ra sao và ý nghĩa như thế nào đều tùy cảm quan của mỗi người. Nhiều người cho rằng: Ấn tượng sâu sắc nhất là xá lợi lưỡi, ý nghĩa giống như xá lợi lưỡi của Ngài Cưu Ma La Thập, Quốc sư thời Hậu Tần (344-413 sau công nguyên) là một trong bốn vị phiên dịch kinh nổi tiếng trong thời kỳ truyền bá Phật Giáo lớn nhất, cùng thời với các Ngài Chân Đế, Huyền Trang và Bất Không. Trước khi viên tịch, Ngài nói với mọi người: Nếu kinh điển do ta phiên dịch không có sai lầm, thì sau khi hỏa thiêu thân ta, cái lưỡi sẽ vẫn còn nguyên vẹn không bị cháy, và quả đúng như vậy.
Ngày nay, xá lợi lưỡi của Hòa thượng Ân sư, không những hàm nghĩa là pháp âm của Hòa thượng suốt đời hoằng dương không có sai lầm, mà còn là chân ngôn, thật ngữ, chân lý tuyệt đối, biểu hiện sức dũng mãnh vô úy, an nhiên tự tại trước mọi thử thách như: Phá hoại, chỉ trích, đố kỵ v.v… của tà ma ngoại đạo, nên xá lợi của Hòa Thượng còn có hình giống như đầu sư tử.
– Thứ hai là xá lợi có hình Phật A Di Đà.
– Thứ ba là xá lợi có hình Quán Thế Âm Bồ tát.
Lúc sinh thời, Hòa Thượng thường hay khai thị về xá lợi như sau: Xá lợi là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Hoa, gọi là kiên cố tử. Đây là một loại cảm ứng, đa số có quan hệ với Định công. Riêng đối với người tu niệm Phật, xá lợi có quan hệ với tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnh, định lực càng sâu, thì xá lợi sẽ kết tinh càng tốt, càng rắn chắc. Điều nầy không quan hệ gì với việc vãng sinh.
Việc vãng sinh, đáng tin cậy nhất là lúc lâm chung, họ thấy Phật đến tiếp dẫn và tự họ nói ra: Phật đến đón tôi rồi. Đó mới là thật sự vãng sinh. Ngoài ra, còn phải xem xét phẩm hạnh của họ lúc sinh thời, công phu tu tập của họ ra sao nữa?
Xá lợi Phật là thật hay giả, điều này không ai dám nói, bởi Phật đã nhập diệt ba ngàn năm rồi.
Cho đến nay, có quá nhiều xá lợi Phật. Thật, giả ra sao, điều này không quan trọng. Nếu giả mà chúng ta vẫn xem như là thật, rồi sinh tâm cung kính, lễ lạy như khi Phật còn tại thế, đó là tu phước thì vẫn tốt thôi. Thế nhưng, điều quan trọng hơn mà chúng ta không thể sơ ý, đó là “Pháp Thân xá lợi Phật”, đấy mới là quan trọng.
Pháp Thân xá lợi Phật là gì? – Là kinh điển! Mới mang đến chúng ta phước báo lẫn trí tuệ; còn nhục thân xá lợi Phật chỉ có thể khiến chúng ta sinh tâm cung kính đối với Phật, chớ không sinh trí tuệ. Hơn nữa, trong kinh Bát Nhã, đức Phật thường nói: “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng”. Vì vậy, chúng ta không nên chấp trước đối với nhục thân xá lợi Phật; nếu chấp trước là sai! Mà phải dùng tâm cung kính đối với Phật để đối xử với tất cả mọi người, mọi sự, mọi vật; đó mới chân thật là đệ tử của Phật. Đức Phật lưu xá lợi cũng vì với mục đích này. Nếu chỉ cung kính đối với Phật mà không cung kính đối với người khác thì việc lưu xá lợi của Phật cũng không còn ý nghĩa! Điều này chúng ta phải hiểu.
Xá lợi có hay không cũng không sao! Có nhiều người tu hành không muốn lưu xá lợi, cũng không muốn lưu nhục thân, là để tránh những phiền toái, đa sự!
Hiện nay, lưu xá lợi hay nhục thân, thực tế mà nói, thời kỳ mạt pháp, những chuyện kỳ quái, giả mạo có rất nhiều. Xá lợi nhìn thấy rất đẹp, nhưng vừa dùng tay ấn xuống liền bể, chứng tỏ không phải thật! – Vì sao có hiện tượng như vậy? – Ma đến nhiễu loạn! – Biết chúng sinh yêu thích những thứ này nên bày trò ảo thuật để mê hoặc quần chúng. Cho nên, đối với việc này phải dùng lý trí mà quan sát, chớ bị tình cảm dẫn dắt.
Trong quá khứ, pháp sư Đàm Hư ở Hồng Kông đã viên tịch cách nay trên hai mươi năm có lưu lại xá lợi. Lúc ấy, người Anh họ không tin, đem viên xá lợi đặt trên miếng sắt, dùng búa đập mạnh vào, nhưng xá lợi vẫn không bể mà búa bị lõm vào. Họ khen rằng: Thật là việc hi hữu chưa từng thấy!
Xã hội ngày nay, càng lúc càng tệ, toàn là đồ giả! Do đó, sau khi hỏa thiêu, có xá lợi hay không có xá lợi, không thành vấn đề. Có xá lợi, không có nghĩa là họ tu hành chứng quả, mà chỉ có thể nói họ tu hành được một chút công phu mà thôi. Phải biết như vậy là được rồi.
Nam mô A Di Đà Phật
Diệu Âm Phổ Hạnh cẩn chí