Phật Thuyết
ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM
THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC KINH GIẢI DIỄN NGHĨA
Hòa thượng Tịnh Không chủ giảng
Ngài Hạ Liên Cư hội tập
Cụ Hoàng Niệm Tổ chú giải
Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa chuyển ngữ
Diệu Âm Phổ Hạnh kính ghi và đúc kết
Phật lịch 2563 -2019

 

II. PHÁT ĐẠI THỆ NGUYỆN ĐỆ LỤC
(TT)

KINH VĂN:

Ngã tác Phật thời, sở hữu chúng sinh, sinh ngã quốc giả, tự tri vô lượng kiếp thời, túc mạng sở tác thiện ác, giai năng đổng thị triệt thính, tri thập phương khứ lai hiện tại chi sự. Bất đắc thị nguyện, bất thủ Chánh Giác.

VIỆT DỊCH:

Lúc tôi thành Phật, tất cả chúng sinh về nước tôi, tự biết các việc thiện ác đã làm trong túc mạng đến vô lượng kiếp, đều trông thấy rõ ràng, nghe rành rẽ, biết được các việc trong quá khứ, hiện tại, vị lai suốt mười phương. Chẳng đạt nguyện này, chẳng lấy Chánh Giác.

GIẢNG:

Trong chương này có ba nguyện: Nguyện thứ sáu “Túc mạng thông”; nguyện thứ bảy “Thiên Nhãn Thông”; nguyện thứ tám “Thiên Nhĩ Thông”. Theo cụ Hoàng Niệm Tổ: Chữ “Thông” ở đây là thần thông, thần dị đến cùng cực. Chẳng thể lường nổi công hạnh thì gọi là “thần”; làm tất cả việc gì cũng chẳng bị úng tắc, tự tại vô ngại thì gọi là “thông”.

Theo Hòa Thượng Tịnh Không: Chữ “thông” trong Đại Kinh này Phật nói có nghĩa là thông đạt không có chướng ngại, như Đại sư Thanh Lương trong Hoa Nghiêm nói: “Lý sự vô ngại, sự sự vô ngại”. Phật nói: Năng lực thấy của mắt chúng ta là tận hư không khắp pháp giới, không những có thể thấy hiện tại, còn có thể thấy quá khứ lẫn vị lai, đây mới gọi là đức năng không chướng ngại. Năng lực này cả sáu căn đều viên mãn, nhưng hiện tại bị chướng ngại chỉ còn trong phạm vi rất nhỏ, không thể đạt đến hư không pháp giới, cũng không thể biết quá khứ, vị lai.

– Chướng ngại này từ đâu mà có?

– Từ không rõ nhân quả! Từ khởi thị phi nhân ngã, từ “tham- sân-si-mạn” v.v… mà có.

Nên nhớ: Chúng sinh nơi Cực Lạc chứng quả thần thông vượt hẳn “Ngũ thông” của chư thiên, cũng vượt xa các thần thông do Thiền định phát sinh như trong kinh luận thường nói. Ví dụ: Phàm phu đạt được “Túc Mạng Thông” không thể biết việc quá khứ hơn tám vạn kiếp được. Trong khi đó, chúng sinh nơi cõi Cực Lạc, nhờ vào sức bổn nguyện oai thần của Phật A Di Đà gia trì mà lập tức hồi phục được tất cả năng lực của sáu căn nên đều biết đến vô lượng kiếp, đắc “Thần Thông Đại Thừa Bất Cộng” (chữ “Bất Cộng” ở đây chỉ riêng Đại thừa mới có, Tiểu thánh Nhị thừa, quỷ thần đều không có nên gọi là “Bất Cộng”).

Sách Bình Giải dựa trên Đại Thừa Nghĩa Chương nêu ra chín điểm sai khác giữa thần thông của chư Phật, Bồ Tát và Nhị thừa như sau:

  • Rộng hẹp chẳng giống nhau:

Kinh Địa Trì nói Thanh Văn thông tỏ hai ngàn cõi nước, Duyên Giác thông tỏ sáu ngàn cõi nước (kinh này bảo thấy trọn ức na-do-tha trăm ngàn cõi Phật, đủ thấy khác biệt rất lớn).

  • Nhiều ít khác biệt:

Thanh Văn, Duyên Giác, “nhất tâm nhất tác, bất năng chúng đa”, cũng chính là nói: Nếu họ tác ý muốn biết một sự việc thì chỉ duy nhất biết sự việc đó thôi, không thể đồng thời biết hết mọi việc. Trong khi đó chư Phật, Bồ Tát có thể cùng một lúc hóa hiện hết thảy thân tướng trong năm đường hay khắp mười phương thế giới. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Tùy chúng sinh tâm, ứng sở tri lượng”, tâm của Phật, Bồ Tát là tùy theo ý niệm của chúng sinh mà ứng hiện.

  • Lớn nhỏ sai khác:

Nhị thừa hóa ra thân lớn chẳng vào được thân nhỏ; hóa thân nhỏ chẳng dung nổi thân lớn. Chư Phật, Bồ Tát hiện thân lớn chật cả tam thiên thế giới, lại có thể đem thân ấy nhét vào trong một vi trần; hóa hiện thân nhỏ như mảy trần nhưng chứa được hết thảy. Hơn nữa, với hết thảy sắc vật, Bồ Tát có thể đem cái lớn (như núi Tu Di), bỏ vào trong cái nhỏ (như hạt cải); lại dùng cái nhỏ (như hạt cải) đựng được cả cái lớn. Thật tự tại vô ngại! Đây là cảnh giới Tứ Vô Ngại” (Lý vô ngại, sự vô ngại, lý sự vô ngại, sự sự vô ngại) trong kinh Hoa Nghiêm, Nhị thừa không thể làm nổi. Vì sao? Người Nhị thừa chưa kiến tánh nên không được tự tại.

  • Nhanh chậm sai khác:

Nhị thừa muốn đến được chỗ xa xôi, phải mất một thời gian mới tới vì chẳng được “Như Ý Thông”. Chư Phật, Bồ Tát trong một niệm đến khắp mười phương thế giới do đã đắc “Như Ý Thông”.

  • Thật, giả sai khác:

Hết thảy thứ do Nhị Thừa hóa hiện chỉ là tương tợ, chẳng thể thật sự dùng được. Chư Phật, Bồ Tát hóa hiện ra thứ gì thảy đều có công dụng thật sự.

  • Việc làm sai khác:

Chư Phật, Bồ Tát có thể đồng thời hóa hiện ra vô lượng vô biên thân, hình sắc chính là “tùy loại hóa thân” khiến cho mỗi thân đều có biện pháp giáo hóa chúng sinh khác nhau. Thí dụ: Cùng ở một khu vực, Bồ Tát có thể hóa hiện ra rất nhiều người như: Pháp sư, cư sĩ giáo hóa, người học Tịnh Độ, người học thiền, người học giáo v.v… Cũng có thể thị hiện là ngoại đạo, thị hiện những tôn giáo khác, thậm chí cả ở trong các ngành, nghề, nam, nữ, già trẻ, mỗi người, mỗi việc không giống nhau. Điều này Thanh Văn, Duyên Giác không làm được.

  • Hóa hiện sai khác:

Chư Phật, Bồ Tát chỉ hiện một thân mà mỗi người mỗi thấy khác nhau; chỉ nói ra một tiếng mà mỗi người nghe mỗi khác; an trụ một cõi mà hiện đủ mười phương, Nhị thừa không thể làm được.

  • Hóa các căn có công dụng sai khác:

Kinh Niết Bàn nói: “Chư Phật, Bồ Tát lục căn hỗ dụng” (Chư Phật, Bồ Tát dùng lẫn sáu căn. Dùng căn này làm chuyện khác, như trong lỗ chân lông, tức là thân căn vang ra các bài kệ. Như vậy, Bồ Tát đã dùng thân căn thay thế cho thiệt căn nói kệ), Nhị thừa chẳng thể làm được.

  • Tự tại sai khác:

Kinh Niết Bàn nói: “Chư Phật, Bồ Tát phàm sở tác vi, thân tâm tự tại, bất tương tùy trục, kỳ thân hiện đại, tâm diệc bất đại. Nhược thân hiện tiểu, tâm diệc bất tiểu. Hỉ ưu đẳng nhất thiết giai nhĩ” (Chư Phật, Bồ Tát hễ làm điều gì thân tâm tự tại, chẳng vướng theo duyên. Dẫu thân hiện lớn, tâm chẳng lớn theo. Dẫu thân hiện nhỏ, tâm cũng chẳng nhỏ theo. Hết thảy vui, lo v.v… đều như vậy). Ý nói: Tuy làm ra đủ loại ứng hiện, giúp đỡ, giáo hóa chúng sinh, nhưng bản thân Phật, Bồ Tát hoàn toàn không có khởi tâm động niệm, không có phân biệt, chấp trước. Phần sau, Kinh Vô Lượng Thọ có nói: “Bất thất định ý”. Đây cũng là điều mà Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát quyền giáo không làm được.

Tự tri vô lượng kiếp thời, túc mạng sở tác thiện ác” (Tự biết được việc thiện ác đã làm trong túc mạng đến vô lượng kiếp). Đây chính là nguyện thứ sáu “nguyện có Túc Mạng Thông”. “Túc” là đời quá khứ, “mạng” là sinh mạng, “Túc mạng” là nhiều kiếp  về trước trong quá khứ. Biết được các việc thiện ác trong nhiều kiếp quá khứ thì gọi là Túc Mạng Thông. Nhị thừa biết được nhiều lắm là đến tám vạn kiếp, Bồ Tát biết đến vô cực. Lời nguyện trong kinh này nói Túc Mạng đến vô lượng kiếp chính là nói đến thần thông của Đại thừa Bồ Tát vậy.

Nguyện này gồm hai ý nghĩa:

1. Sư Trừng Hiến, người Nhật nói: Do chẳng biết túc mạng nên chẳng sốt sắng làm lành, chẳng sợ điều ác. Với muôn điều thiện trở nên lười biếng, tạo tác các ác cũng chỉ do không biết túc nghiệp. Vị La Hán kia nhớ nỗi khổ trong Nê-Lê (địa ngục) mà toát mồ hôi lẫn máu (xưa kia có vị La Hán nhớ đến khi xưa ở trong địa ngục, chịu các thống khổ thảm thiết mà kinh sợ cùng cực, mồ hôi toát ra có lẫn cả máu).

Ngài Phước Tăng thấy xương đời trước của mình chợt khai ngộ. Lại có người chẳng biết kẻ ấy là mẹ đẻ trong đời trước nên lấy làm vợ, chẳng biết là oán gia đời trước nên nuôi như con, chẳng biết là cha đời trước nên đem nấu thành thức ăn ngon v.v… Đấy đều do mê muội túc sự (chuyện đời trước), ham đắm nỗi vui trong đời, nay chợt nghe bổn duyên đều sinh tâm nhàm chán vậy”.

Theo cụ Hoàng Niệm Tổ, người cõi Cực Lạc cần phải có “Túc Mạng Trí Thông” để biết được hạnh nghiệp của chúng sinh trong quá khứ, nhờ đó mà dẫn dụ họ, dùng phương tiện này hòng hóa độ chúng sinh.

2. Ngài Tịnh Chiếu nói: Nếu biết được túc mạng thì chẳng tự cao. Nhớ nghĩ đến vô số công đức trong quá khứ nên chỉ nương theo thệ nguyện của Phật để được sinh về cõi kia”.

Ngài Trừng Hiến cũng nói: “Vãng sinh cõi kia liền trước hết biết túc mạng, thật là kính ngưỡng Phật đức sâu xa”.

Đỗng thị, triệt thính tri thập phương khứ lai, hiện tại chi sự” (Thấy rõ ràng, nghe rành rẽ việc quá khứ, hiện tại, vị lai trong suốt mười phương): Đây là công năng của Thiên Nhãn, và Thiên Nhĩ thật không thể nghĩ bàn! Theo Hòa Thượng Tịnh Không: Họ đã đột phá toàn bộ cái mà khoa học hiện tại gọi là “Duy thứ vô lượng thời không”; không gian khắp mười phương, thời gian tận cùng quá khứ, hiện tại, vị lai họ đều có thể nhìn thấu, nghe thấy. “Đỗng” là sâu xa, thông suốt; “Triệt” là thông suốt, sáng tỏ. “Đỗng thị” là thấy rất sâu, rất rõ ràng, rất vi tế, đây là nguyện thứ bảy “Thiên Nhãn Thông”. “Triệt thính” là nghe rõ ràng, cho dù sóng âm cực kỳ vi tế, thậm chí bản thân chúng ta vẫn chưa phát hiện, nhưng Phật, Bồ Tát người ở thế giới Tây Phương Cực Lạc đã nghe thấy, tiếp nhận rồi, đây là nguyện thứ tám “Thiên Nhĩ Thông”.

Thiên Nhãn Thông còn gọi là Thiên Nhãn Trí Thông, hoặc Sinh Tử Trí Thông. Thiên Nhãn là con mắt cõi trời, thấy được hết thảy hình sắc dù thô hay tế, xa hay gần và tướng trạng sinh tử của chúng sinh trong tương lai.

Sách Hội Sớ bảo: “Thấy được các tướng: chết đây, sinh kia, khổ, vui v.v… của lục đạo chúng sinh và thấy hết thảy các thứ hình sắc chướng nội, chướng ngoại, thế gian, xuất thế gian, chẳng bị chướng ngại”. Mắt thịt của phàm phu chỉ thấy được vật “chướng nội”. Ví dụ: Tường vây quanh là Chướng. Phàm phu chỉ thấy được vật giữa các bức tường (chướng nội) chẳng biết được hết thảy vật ngoài tường (chướng ngoại). “Thiên Nhãn” thấy được những vật “chướng ngoại” nên thông đạt vô ngại.

Thiên Nhãn của trời, người cõi Cực Lạc lại vượt xa Thiên Nhãn của Nhị Thừa và chư thiên. Đại sĩ Long Thọ nói: “Bậc tiểu Thanh Văn trong hàng Nhị Thừa nếu chẳng tác ý liền thấy được một ngàn cõi. Nếu tác ý thì thấy hai ngàn quốc độ. Đại Thanh Văn chẳng tác ý thấy được hai ngàn, tác ý thấy được ba ngàn. Bậc tiểu Duyên Giác chẳng tác ý thấy hai ngàn, tác ý thấy ba ngàn. Bậc Đại Duyên Giác dù tác ý hay không cũng đều thấy được việc trong tam thiên đại thiên thế giới. Chư Phật, Bồ Tát thấy được sự việc trong vô lượng thế giới”.

Chỗ này hội bản ghi là thấy rõ “thập phương khứ lai hiện tại chi sự” (việc quá khứ, hiện tại, vị lai trong mười phương). Ý nói: Thấy được sự việc trong vô lượng thế giới, đủ thấy thần thông của người cõi Cực Lạc chính là thần thông của chư Phật, Bồ Tát.

Với nguyện thứ bảy này, cụ Hoàng nêu ra hai thuyết:

1. Ngài Vọng Tây nói: “Do chúng sinh trong cõi nước chẳng thấy các quả khổ nên chẳng sợ cái nhân tạo khổ, cũng do chẳng thấy các quả vui nên chẳng tu cái nhân sinh vui. Ngài Pháp Tạng thương xót những bọn chúng sinh ấy nên chọn lựa cái nguyện này để nhiếp thủ chúng nó”.

Sách Hội Sớ cũng bảo: “Mắt thịt mờ mịt, kém cỏi, chẳng thể thấy nổi vật bị che lấp bởi một tờ giấy. Chỉ tính cái trước mắt, chẳng thấy khổ dữ nơi địa ngục, nên chẳng dũng mãnh siêng tu; chẳng thấy được cái vui thù thắng nơi Tịnh Độ nên hờ hững tâm niệm ham cầu”.

Ngài Trừng Hiến lại nói: “Ôi chao thương thay! Chẳng thấy quả khổ địa ngục, ngạ quỷ, chẳng thấy cha mẹ, sư trưởng thọ báo nên hờ hững cái tâm nhàm chán, biếng nghĩ việc báo ân”. Vì vậy, ngài Vọng Tây bảo: “Việc trọng yếu thượng cầu hạ hóa, cái đạo chán khổ báo ân chỉ cốt ở Thiên Nhãn soi thấy mà thôi!”.

2. Sách Trích Ký khai triễn:

“Các sách như Hội Sớ v.v… cho rằng Phật phát nguyện như thế là để diệt ác sinh thiện, chán khổ ham tịnh. Nếu như vậy thì hóa ra là chẳng phải để đạt lợi ích nơi cõi chân độ (chỉ Cực Lạc). (Tôi cho rằng) nguyện này chính là để đạt lợi ích nơi cõi chân thật.

Như có Tịnh Độ, tuy thánh chúng cõi ấy có Thiên Nhãn, thấy được hai ngàn thế giới hoặc thấy ba ngàn thế giới, nhưng chẳng thấy trọn bất khả thuyết, bất khả thuyết Phật sát cực vi trần số cõi Phật. Hoặc có Tịnh Độ, Bồ Tát cõi ấy tuy được Thiên Nhãn, nhưng chẳng trọn đủ ngũ nhãn. Do vậy, Phật đặc biệt phát ra nguyện này.

Cũng bởi thế, trong phần Nguyện Thành Tựu có nói: Nhục nhãn thanh triệt, mị bất phân liễu. Thiên Nhãn thông đạt, vô lượng vô hạn’. (Mắt thịt trong trẻo không gì chẳng thấy rõ. Thiên Nhãn thông đạt vô lượng vô hạn). Như vậy, hễ được một thứ Thiên Nhãn thì sẽ trọn đủ ngũ nhãn. Bởi thế, thấy được cõi Phật nhiều như số vi trần, thấy rõ chúng sinh chết đây sanh kia, cứu giúp, lợi lạc chúng sinh, luôn làm Phật sự. Đó chính là lợi ích thù thắng của nguyện này vậy”.

Cụ Hoàng Niệm Tổ có đồng quan điểm với thuyết sau cùng và nêu ra nhận xét của mình như sau: “Nếu cho rằng nguyên khởi của lời nguyện này chỉ để diệt điều ác, sinh điều lành và khiến cho (người nghe) chán khổ, thích vui, thì đó chưa phải là cái lợi ích thực tế cho người cõi Cực Lạc. Trời, người cõi Cực Lạc thấy được bất khả thuyết, bất khả thuyết Phật sát vi trần số cõi Phật, nhưng do đắc Thiên Nhãn, họ liền được đầy đủ trọn vẹn cả Ngũ Nhãn: Tuệ Nhãn, Pháp Nhãn, Phật Nhãn và Nhục Nhãn sẵn có. Do đó, họ thấy được cõi nước nhiều như vi trần, thấy rõ các tướng sống chết qua lại của chúng sinh, nên có thể cứu giúp quần sanh, lợi lạc vạn vật. Đấy mới là lợi ích thù thắng của bổn nguyện. Trong hai thuyết trên, thuyết sau rất đạt bổn nguyện của Phật Di Đà”.

Câu “triệt thính thập phương khứ lai hiện tại chi sự” (nghe rõ ràng chuyện quá khứ, vị lai, hiện tại trong mười phương). Đây chính là nguyện thứ tám “đắc Thiên Nhĩ Thông”. Thiên Nhĩ Thông còn gọi là Thiên Nhĩ Trí Thông. Thiên Nhĩ là tai của chư thiên trong Sắc giới, nghe được tiếng nói của hết thảy chúng sinh trong lục đạo và hết thảy âm thanh xa, gần, lớn, nhỏ.

Bản Đường dịch ghi: “Quốc trung hữu tình, bất hoạch thiên nhĩ, nãi chí bất văn ức na-do-tha bách thiên du-thiện-na ngoại thuyết pháp giả, bất thủ Chánh Giác” (Hữu tình trong nước chẳng được Thiên Nhĩ, cho đến chẳng nghe được lời thuyết pháp cách xa ức na- do-tha trăm ngàn du-thiện-na thì chẳng lấy Chánh Giác).

Theo đó, Thiên Nhĩ Thông của trời, người cõi Cực Lạc vượt xa Nhị thừa, chẳng những nghe được khắp tất cả âm thanh trong mười phương, mà còn có thể nghe được vô lượng chư Phật thuyết pháp.

Ngài Trừng Hiến bảo: “Thần thông này rất quan trọng. Nghe được tiếng các khổ nơi địa ngục, tiếng đói khát của loài ngạ quỷ liền thêm lớn bi tâm. Nghe tiếng nhạc Càn Thát Bà (Càn Thát Bà là nhạc thần của Thiên Đế, gảy đàn lưu ly, tiếng vang vọng khắp tam thiên đại thiên thế giới), tiếng thần tiên tụng kinh. Nghe rồi thường thích chốn núi non tịch tĩnh; huống hồ nghe chư Phật thuyết pháp, nghe xong đều thọ trì, nghe Bồ Tát bàn bạc càng thêm khát ngưỡng”.

Hòa Thượng Tịnh Không kể rằng: Trong Cao Tăng Truyện có nói qua tiểu sử của ngài An Thế Cao, ông trước đây đã từng dịch qua mấy bộ kinh. Đại sư An Thế Cao có năng lực hiểu được ngôn ngữ của cầm thú. Chúng ta chỉ nghe được tiếng chim hót, kỳ thật chúng đang nói chuyện. Ngài An Thế Cao nghe chúng nói chuyện liền bảo với người bạn: “Con chim này nó nhìn rất xa, thấy đằng xa kia có người đang đi đến, gánh những gì đó trên vai”. Một lát sau, quả nhiên có người kia đi đến, chứng tỏ ngài có thể hiểu tiếng cầm thú.

– Vì sao ngài có năng lực này?

– Do học!

– Ngài học từ đâu?

– Từ trong thiền định thâm sâu phát thông trong tâm thanh tịnh; bản năng hồi phục này vốn có. Điểm này đáng để cho chúng ta chú ý.

KINH VĂN:

Ngã tác Phật thời, sở hữu chúng sinh sinh ngã quốc giả, giai đắc Tha Tâm Trí Thông. Nhược bất tất tri ức na-do-tha bách thiên Phật sát, chúng sinh tâm niệm giả, bất thủ Chánh Giác.

VIỆT DỊCH:

Lúc tôi thành Phật, tất cả chúng sinh sinh trong nước tôi đều đắc Tha Tâm Trí Thông. Nếu chẳng biết được hết tâm niệm của chúng sinh trong ức na-do-tha trăm ngàn cõi Phật, chẳng giữ lấy Chánh Giác.

GIẢNG:

Đoạn kinh văn trên là nguyện thứ chín “Tha Tâm Thông” cũng gọi là “Tha Tâm Trí Thông”. Sáu loại thần thông đều là trí tuệ khởi tác dụng, trí tuệ này không phải do tu mà được, là trí tuệ Bát Nhã vốn đầy đủ trong tự tánh. Trong Kinh Hoa Nghiêm, đức Phật nói: “Tất cả chúng sinh đều có trí tuệ đức tướng của Như Lai”. “Như Lai” là nói về tự tánh, trí tuệ vốn đủ trong tự tánh chúng ta, cũng có thể nói là bản thể thật sự của Pháp Thân. Khi Đại sư Huệ Năng khai ngộ, ngài nói: “Nào ngờ tự tánh vốn tự đầy đủ”.

– Đầy đủ những gì?

– Đầy đủ trí tuệ, đức năng, tướng hảo như Kinh Hoa Nghiêm nói.

Ba điều này đã bao hàm khắp pháp giới, hư không giới trong đó. Trí tuệ là nguồn gốc của hiện tượng tinh thần, mà hiện tượng tinh thần lại là bản chất của hiện tượng vật chất, cho thấy tất cả pháp trong vũ trụ không lìa Bát Nhã vốn đầy đủ trong tự tánh. Do vậy mà Thích Ca Mâu Ni Phật xuất hiện ở thế gian này, vì chúng sinh giảng kinh thuyết pháp suốt bốn mươi chín năm; mười hai năm đầu là A-Hàm (nhân thiên và Tiểu Thừa); tám năm kế là Phương Đẳng (Đại Thừa); hai mươi hai năm tiếp đó là Bát Nhã; tám năm sau cùng là Pháp Hoa; Niết Bàn là một ngày một đêm, di giáo sau cùng. Từ chỗ này có thể lãnh hội được then chốt của Phật pháp là Trí tuệ Bát Nhã.

Ngã tác Phật thời, sở hữu chúng sinh, sinh ngã quốc giả, giai đắc Tha Tâm Trí Thông” (Lúc tôi thành Phật, tất cả chúng sinh sinh trong nước tôi đều đắc Tha Tâm Trí Thông). Có người nói Phật Giáo mê tín, đó là họ hoàn toàn không biết gì về Phật Giáo. Phật pháp lấy trí tuệ làm then chốt. Trí tuệ trong ý thức khởi tác dụng chính là “Tha Tâm Thông”, có thể biết được tâm niệm của người khác, thấy rõ hết thảy chúng sinh trong tâm đang nghĩ gì, như gương sáng hiện rõ muôn hình tượng. Thâm ý của lời nguyện này, như Đại sư Trừng Hiến nói: “Thế tục còn coi việc hiểu lòng người khác là quan trọng, huống hồ bậc xuất thế lợi lạc chúng sinh”. Người thế gian rất coi trọng vấn đề này. Vì sao? Vì có thể biết trước lành dữ, họa, phước để tránh hung họa, để tìm lành lánh dữ.

Phật, Bồ Tát thấu triệt tất cả nhưng không có ý niệm tìm lành lánh dữ, vì họ có năng lực hóa giải mọi tai ương, hung họa. Họ có “Tha Tâm Thông” nên giảng kinh dạy học rất khế cơ, hoàn toàn không có chướng ngại. Phật thuyết pháp, kinh điển ngài lưu lại gọi là Khế Kinh, Khế Kinh nghĩa là: Trên khế lý với đức Phật chứng, đó là hoàn toàn tương ưng với tự tánh; dưới khế cơ, có thể độ tất cả chúng sinh, không những trong hiện tại mà cả trong quá khứ lẫn vị lai. Chúng ta học Phật nghe đến nguyện này, người thật sự tin nhân quả không lạnh mà run!

Hòa Thượng Tịnh Không kể: Năm xưa ngài học Phật, đọc đến kinh văn này liền nổi da gà! Bất kỳ một ý nghĩ cực kỳ vi tế nào thì Phật, Bồ Tát ở thế giới Tây Phương Cực Lạc cũng đều biết rõ. Chúng ta muốn vãng sinh thế giới Cực Lạc, với ý nghĩ này, hành vi này, liệu Phật có tán đồng hay không?! Chân thật muốn thành tựu ngay trong đời này, quyết chẳng dám trái phạm lời dạy của Phật Đà, ngoan ngoãn chăm chỉ mà học tập, đó mới là người thật tâm học Phật. Đoạn kinh văn này, dùng cách nói của người hiện tại gọi là tâm lý học, hiểu được tường tận tâm lý của người khác, không cần phải suy xét, ức đoán chi cả.

Nhược bất tất tri ức na-do-tha bách thiên Phật sát chúng sinh tâm niệm giả” (Nếu chẳng biết được hết tâm niệm của chúng sinh trong ức na-do-tha trăm ngàn cõi Phật). Chữ “bách thiên Phật sát” bao gồm cõi Phật Ta Bà chúng ta đang ở. Chữ “chúng sinh tâm niệm” bao gồm khởi tâm động niệm của tất cả chúng ta. Chúng sinh vãng sinh đến thế giới Cực Lạc, thảy đều có trí biết năng lực này huống là A Di Đà Phật cùng các Thánh chúng. Chúng ta ngày nay gặp khổ nạn, thường cầu đến Quán Thế Âm Bồ Tát.

– Có cần phải cầu xin không?

– Không cần! Ngài đều biết cả rồi!

Chỉ cần chúng ta như giáo tu hành thì chắc chắn được chư Phật, Bồ Tát hộ niệm, chư thiên thiện thần ủng hộ, tai nạn dù lớn thế mấy cũng có thể vượt qua. Đoạn kinh văn này giúp chúng ta vững chải hơn trong niềm tin đối với chư Phật, Bồ Tát.

KINH VĂN:

Ngã tác Phật thời, sở hữu chúng sinh, sinh ngã quốc giả, giai đắc thần thông tự tại, Ba La Mật Đa. Ư nhất niệm khoảnh, bất năng siêu quá ức na-do-tha bách thiên Phật sát, châu biến tuần lịch cúng dường chư Phật giả, bất thủ Chánh Giác.

VIỆT DỊCH:

Lúc tôi thành Phật, tất cả chúng sinh, sinh trong nước tôi đều được thần thông tự tại, Ba La Mật Đa. Trong khoảng một niệm chẳng thể vượt qua ức na-do-tha trăm ngàn cõi Phật, đến khắp tất cả (các cõi ấy) cúng dường chư Phật thì chẳng lấy Chánh Giác.

GIẢNG:

Chương này nói đến nguyện thứ mười “Thần Túc Thông Nguyện” và nguyện thứ mười một “Biến cúng chư Phật nguyện” (Cúng dường khắp chư Phật). Trong câu “châu biến tuần lịch cúng dường chư Phật” (đến khắp tất cả cúng dường chư Phật) có hai ý nghĩa; chúng ta phải phân ra đọc cho dễ hiểu: “châu biến tuần lịch” và “châu biến cúng dường”. Chữ “châu biến tuần lịch” (đến khắp, đi qua trọn khắp) là nguyện thứ mười, “châu biến cúng dường” (cúng dường trọn khắp) là nguyện thứ mười một.

“Ngã tác Phật thời sở hữu chúng sinh, sinh ngã quốc giả(Lúc tôi thành Phật, tất cả chúng sinh, sinh trong nước tôi): Câu này bao gồm cả chúng ta trong đó. Ngày nay, chúng ta cư ngụ là cõi Phàm Thánh Đồng Cư thế giới Ta Bà của Thích Ca Mâu Ni Phật. Đến thế giới Tây Phương Cực Lạc cũng là cõi Phàm Thánh Đồng Cư, nhưng cõi Phàm Thánh Đồng Cư của thế giới Cực Lạc khác biệt rất lớn so với cõi Phàm Thánh Đồng Cư của mười phương thế giới chư   Phật.

Cõi Phàm Thánh Đồng Cư của thế gian chúng ta, không ai có được năng lực “châu biến tuần lịch cúng dường” này.

Gần đây, khi khai quang tượng Bồ Tát Quán Âm ở núi Phổ Đà; Singapore hội trưởng chúng ta dẫn phái đoàn đi tham dự, đã chính mắt xem thấy Bồ Tát Quán Âm thị hiện ở không trung. Khi ông trở về nói với chúng tôi: Hôm đó, ông xem thấy trên trời dường như có một cái cửa mở ra, xuất hiện bốn đóa hoa sen, tiếp theo xem thấy Tứ Đại Thiên Vương, sau đó có Bồ Tát Quán Âm xuất hiện. Lúc đó, có đến mấy vạn người đều xem thấy. Việc này không phải giả! Nghe nói còn có người ghi hình. Hiện tại, người phương Tây có rất nhiều dự ngôn rằng tương lai ở nơi đây đều sẽ chìm trong biển lớn. Sau khi chìm trong biển lớn, thử hỏi:

– Bồ Tát Quán Âm, Bồ Tát Địa Tạng ở đâu?

– Đã là nơi chư Phật, Bồ Tát ở quyết có thiên long hộ  pháp ủng hộ.

Người học Phật chúng ta phải có lòng tin: Tai nạn là  khẳng định có! Tránh khỏi tai nạn không phải không có phương pháp. Chúng ta theo Phật, Bồ Tát sẽ không có tai nạn. Trái ngược với Phật, Bồ Tát e rằng liền có nạn tai! Người phương Tây cũng có cách nói này: Người tín ngưỡng Thượng Đế có thể may mắn thoát khỏi tai nạn. Người không tín ngưỡng Thượng Đế đều sẽ bị trừng phạt. Họ nói trừng phạt là có điều kiện; điều kiện là hỏi bạn có tin hay không?

– Chúng ta nghe lời nói này có phải đổi, đi tin Ki-tô hay không?

–  Ý nghĩa hàm chứa trong lời nói này rất sâu! Nếu hiểu sai ý nghĩa của Thượng Đế, bạn tuy tin ngài, vẫn không thể tránh khỏi bị trừng phạt!

Tin Thượng Đế, cùng tin Phật, Bồ Tát, chữ “tin” đó cùng một ý nghĩa. Chúng ta tin Phật, Bồ Tát là tin theo giáo huấn của ngài, y giáo phụng hành, đó mới gọi là tin. Trong tôn giáo cũng cùng đạo lý này. Chớ nên cho rằng: Tin Thượng Đế là có bùa hộ thân, bất cứ tội nghiệp gì ta gây tạo đều có Thượng Đế gánh vác thay ta. Đây là hiểu sai, hiểu lầm, là nhục mạ Thượng Đế!

–  Thượng Đế là cái tâm gì?

–  Tâm “từ bi hỉ xả”, tâm “thập thiện nghiệp đạo”. Đây là điều kiện để sinh thiên. Hiểu được đạo lý này, y theo cương lĩnh mà tu học, là tin vào Thượng Đế. Chớ hiểu Thượng Đế như đầu mục của xã hội đen, bao che tội ác thì còn gì có chỗ tốt mà tin theo chứ?!

Sinh ngã quốc giả, giai đắc thần thông tự tại (Sinh trong nước tôi đều được thần thông tự tại) chữ “thần” là diệu dụng chẳng thể lường nổi. “Thông” là dung thông tự tại.

Ba La Mật Đa(Paramita) hoặc “Ba-La-Mật” (Ba La là bờ kia, Mật Đa là đến. Theo văn phạm Ấn Độ là Bỉ Ngạn Đáo, tiếng Hán là Đáo Bỉ Ngạn), dịch là Sự Cứu Cánh, Đáo Bỉ Ngạn, Độ Vô Cực, hoặc chỉ giản lược một chữ là “Độ”. Sự Cứu Cánh là sự việc làm đến viên mãn, đến thành công. Đáo Bỉ Ngạn (đến bờ kia), người xưa gọi là công phu đã đến nơi đến chốn. Độ Vô Cực là giáo hóa chúng sinh đạt đến cứu cánh viên mãn.

Ư nhất niệm khoảnh (Trong khoảng một niệm): Chỉ thời gian cực kỳ ngắn ngủi, thời gian này có nhiều thuyết khác nhau. Ngày nay lấy “sát-na” làm một niệm. Theo Đại Trí Độ Luận và Kinh Nhân Vương nói: Trong một khảy móng tay có sáu mươi “sát-na”. Kinh Nhân Vương còn nói: “Một sát-na có chín trăm lần sinh diệt”. Trong “Bồ Tát Xứ Thai Kinh”, Bồ Tát Di Lặc trả lời đức Thích Ca Mâu Ni Phật: “Trong một khảy móng tay có ba mươi hai ức, một trăm ngàn niệm; niệm niệm thành hình, hình đều có thức”, so với Kinh Nhân Vương nói còn ngắn hơn nhiều. Bồ Tát Di Lặc nói cùng các nhà Lượng tử lực học hiện nay phát hiện gần giống nhau.

Có thể “tiểu quang tử” mà nhà khoa học nói so với trong Phật pháp gọi là “cực vi chi vi” là tương đồng không thể phân chia được nữa; phân nữa sẽ không còn, đây là vật chất nhỏ nhất trong hiện tượng vật chất. Nhà khoa học cũng chứng minh vật chất không phải thật, là huyễn tướng do nhiều “tiểu quang tử” tích lũy liên tục mà sinh ra. Việc này giúp chúng ta lãnh hội được trong Phật pháp Đại thừa nói về “Ngũ Uẩn giai không”, trong đó đức Phật giải thích rất tường tận, phân nó thành “sắc, thọ, tưởng, hành, thức”. “Sắc” là hiện tượng vật chất; “thọ-tưởng-hành-thức” là hiện tượng tinh thần.

Nói cách khác, theo quan điểm Phật pháp trong “Cực vi chi vi”, có đầy đủ hiện tượng “Ngũ Uẩn”, toàn thể vũ trụ đều không ngoài hiện tượng này, trong một niệm nhỏ nhất có đầy đủ hiện tượng của “thọ-tưởng-hành- thức”. Chẳng hạn như thân thể con người là hiện tượng Ngũ Uẩn, bất luận phân như thế nào, phân đến “cực vi chi vi”, mỗi điểm đó vẫn là hiện tượng Ngũ Uẩn hoàn chỉnh. Việc này hình như các nhà khoa học cũng đã chứng minh. Thông thường chúng ta rất khó tưởng tượng, có thể nói là không thể tưởng tượng, đây là chân tướng sự thật. Trên kinh Phật nói: “Hạt cải chứa núi Tu Di, núi Tu Di chứa hạt cải” cũng là nói rõ hiện tượng này.

Thật ra, “tiểu quang tử” nhỏ hơn nhiều so với “giới tử”, “giới tử” là hạt cải chỉ lớn bằng hạt mè, trong đó có thể dung nạp núi Tu Di. Vì sao? Vì núi Tu Di không tách rời “Ngũ uẩn”; “tiểu quang tử” cũng là “Ngũ uẩn” viên mãn, bao gồm toàn bộ tin tức của vũ trụ. Trong Kinh Hoa Nghiêm nói: Lớn, nhỏ không hai, đây là thật! Đây là khoa học trong kinh Phật. “Tiểu quang tử” này chỉ trong “sát-na”, khoảng thời gian ngắn có thể vượt quanh một vòng ức na-do-tha trăm ngàn cõi Phật. Cảnh giới này giống như trong “Vọng Tận Hoàn  Nguyên Quán” của Quốc sư Hiền Thủ nói về ba loại chu biến: Chu biến pháp giới, xuất sanh vô tận (có thể biến hiện vô lượng vô biên thân), và hàm dung không hữu. Ba loại chu biến này là tánh đức của tự tánh. Thuật ngữ trong Phật pháp gọi là “Pháp nhĩ như thị”, nó vốn là như vậy.

Khi những hiện tượng này dừng lại, đó là bản thể của tự tánh; trong Tịnh Tông gọi là Thường Tịch Quang. Khi phát sinh hiện tượng chấn động liền trở thành A-lại-da, biến hiện ra tất cả vạn pháp trong vũ trụ. Trên kinh Phật nói: Vũ trụ này là “tâm hiện thức biến”; tâm hiện là tâm động; tâm bất động nó không hiện.

– Khi nào tâm động? Vì sao động?

– Không có thời gian, cũng không có nguyên nhân!

– Động này là vọng động, nó không phải thật; trong Phật Giáo gọi là “Vô thỉ vô minh”, “vô thỉ” là không có bắt đầu.

– Vì sao không có bắt đầu?

– Vì thời gian của nó quá ngắn! Chúng ta không cách nào cảm nhận được lúc nó bắt đầu!

Trong một khảy móng tay có ba mươi hai ức, một trăm ngàn niệm, như vậy làm sao phát hiện được! Cho nên, gọi nó là “vô thỉ”. Trên thực tế, có câu nói rất hay: “Ngay tại đây!” Câu này cũng rất khó hiểu! Vì sao? Trong quan niệm “ngay tại đây” này, thời gian cũng rất dài, không biết có bao nhiêu cái “ngay tại đây” tích lũy một nơi!

Trong kinh điển Đại thừa nói: Bồ Tát Bát Địa trở lên gần với quả vị Diệu Giác mới cảm nhận được; trước Thất Địa đều không thể cảm nhận được; đương nhiên phàm phu chúng ta càng không cần phải nói. Đây là trong kinh Phật nói về thật tướng của các pháp. Sáu trăm quyển Đại Bát Nhã nói về hiện tượng này, thực tế chính là một câu mà đức Phật nói suốt hai mươi hai năm, nhưng người thật sự hiểu thì không nhiều! Ngài nói: “Nhất thiết pháp, vô sở hữu, tất cánh không, bất khả đắc”. Vì thế Phật dạy chúng ta buông bỏ, đạo lý chính ngay ở chỗ này.

Trong Bách Pháp Minh Môn Luận nói sáu pháp vô vi, chỉ có một pháp thật là: “Chân Như vô vi”, đây là nói về tự tánh. Năm “vô vi pháp” còn lại không phải thật, chỉ là “tương tợ vô vi”, không phải “chân vô vi”, vì nó có sinh diệt. Tướng sinh diệt không rõ ràng, không những chúng ta không dễ cảm nhận mà Nhị thừa, Quyền giáo Bồ Tát cũng rất khó cảm nhận được hiện tượng sinh diệt của nó, nên gọi là “Pháp vô vi”.