SỐ 202
KINH HIỀN NGU
Hán dịch: Đời Nguyên Ngụy, xứ Kinh châu, quận Cao xương,
Sa-môn Tuệ Giác và các vị khác cùng dịch.

Việt dịch:  Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh.

 

QUYỂN 1

Phẩm 3: HAI VỊ PHẠM CHÍ THỌ TRAI GIỚI

Tôi nghe như thế này, một thời Đức Phật trú tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Bấy giờ, vào lúc đầu đêm có hai vị trời đến chỗ Đức Phật, thân phóng ra ánh sáng chiếu khắp vườn Kỳ hoàn, sắc như màu vàng. Đức Phật cũng tùy nghi mà diễn nói Diệu pháp. Cả hai vị tâm ý đều được khai ngộ và chứng được Đạo tích (Nhập lưu). Họ đảnh lễ Đức Phật và trở về cõi trời.

Sáng sớm ngày mai ngài A-nan hỏi Phật:

– Bạch Đức Thế Tôn, đêm hôm qua có hai vị trời đến yết kiến Thế Tôn, con thấy họ oai tướng rạng ngời, ánh sáng tỏa khắp, ngày trước họ tạo công đức gì mà nay lại được kết quả thù thắng như vậy?

Đức Phật dạy:

– Này A-nan, vào thời Phật Ca-diếp, sau khi Phật diệt độ, chánh pháp bước vào thời kỳ cuối cùng, có hai vị Bà-la-môn thọ trì tám pháp trai giới. Một người mong được sinh lên trời, còn vị kia mong được làm vua một nước. Người thứ nhất khi trở về nhà, bị người vợ ép cùng ăn phi thời.

Người chồng đáp:

– Anh đã thọ trai giới, quá giờ ngọ không được ăn.

Người vợ nói:

– Anh thuộc dòng họ Phạm chí đã sẵn có giới pháp, tại sao anh lại đi thọ trai giới của ngoại đạo, rồi sinh ra mâu thuẫn không cùng ăn với em. Việc này em sẽ đem ra nói cho các Phạm chí khác được biết, họ sẽ đuổi và không cho anh tham dự vào các buổi hội họp.

Sau khi nghe lời hăm dọa, ông ta rất đổi sợ hãi liền cùng người vợ ăn uống phi thời. Hai người tùy theo tuổi thọ dài ngắn rồi cũng đều chết. Người mong làm vua, do công phu trì trai giữ giới trọn vẹn nên được sinh trong gia đình vương giả. Người mong sinh lên trời, do phạm trai giới, nên sinh trong loài rồng. Bấy giờ có một người giữ vườn cho vua, ngày ngày dâng các loại trái cây. Sau đó người này đi ra ngoài dòng suối, thấy được một quả nại khác lạ vô cùng ở trong nước, màu sắc và mùi vị rất thơm ngon, liền nghĩ: “Ta mỗi ngày ra vào thường gặp quan môn giám, nên đem biếu cho ông ta.” Sau khi nghĩ như vậy, ông liền đem biếu cho quan giám môn. Sau khi nhận, liền nghĩ: “Mọi việc của ta tốt đẹp đều nhờ  quan hoàng môn, nhờ ông mà được tới lui, nên đem biếu cho ông ta”, liền đem quả nại biếu cho quan hoàng môn. Quan hoàng môn nhận rồi đem biếu cho phu nhân, phu nhân đem dâng cho vua. Vua ăn trái xong biết được mùi vị thơm ngon tuyệt vời liền hỏi phu nhân trái này từ đâu mà có. Phu nhân thuật lại ngọn ngành, được biết từ quan viên giám, vua cho triệu vào và hỏi:

– Vườn của ta có trái thơm ngon như vậy, sao không thấy dâng cho ta, mà lại đem cho người khác. Quan viên giám giải thích rõ đầu đuôi. Vua ra lệnh:

– Từ nay về sau, ngày nào cũng dâng quả nại này cho ta, không được gián đoạn.

Quan viên giám tâu:

– Quả nại này không thấy gốc gác, hạ thần nhặt được từ dòng suối, nếu nhà vua ra lệnh ngày nào cũng đem dâng thì không làm sao mà hoàn thành được. Nhà vua nghiêm khắc phán lệnh:

– Nếu nhà ngươi không hoàn thành nhiệm vụ, ta sẽ xử trảm. Quan viên giám thất thểu bước ra, tiến về khu vườn khóc lóc sầu não. Tiếng khóc càng lúc càng lớn, rồng nghe tiếng khóc hiện làm thân người, tiến đến gần hỏi:

– Ông có chuyện gì mà buồn thảm khóc lóc như vậy? Quan giữ vườn trình bày đầy đủ sự việc, rồng liền trở lại dòng nước, lấy nhiều quả ngon ngọt đặt trên mâm bằng vàng, đem đến cho quan viên giám và bảo:

– Ông đem mâm quả này dâng đến nhà vua của ông và nhắc lại rằng: ‘Ta và vua trước đây là bạn hữu, kiếp trước ở trên thế gian này đều thuộc dòng Phạm chí, cả hai cùng thọ giới Bát quan trai, mỗi người có một ý nguyện. Ông ta giữ giới trọn vẹn được làm ngôi vua, còn ta không giữ giới hoàn toàn nên sinh vào trong loài rồng.’ Nay ta muốn thọ trì và tu tập pháp Bát quan trai để xả bỏ thân này, mong vua tìm giúp ta một phương tiện để thọ trì tám pháp trai giới. Nếu trái với ý định ta sẽ lật úp quốc độ của vua biến thành biển cả. Quan viên giám khi nhận được mâm quả đem dâng cho vua và trình bày lại những lời nhắn gởi của rồng. Vua nghe xong trong lòng không vui. Tại sao? Vì hiện tại ở trong nước không có truyền bá Phật  pháp, văn kinh Bát quan trai cũng đã tận diệt từ lâu, nay không cách nào mà kiếm ra được, nếu không cân nhắc vấn đề này, sợ rằng sẽ có nguy hại đến đất nước. Ngày đêm dốc tâm vào việc này nên vua sinh buồn rầu lo lắng. Nhà vua, lúc ấy có một vị đại thần, được mọi người hết sức kính trọng, vua nói với vị đó:

– Thần rồng nhờ ta tìm giúp bài văn Bát quan trai giới. Mong khanh làm được, ta giao việc này cho khanh.

Vị đại thần tâu:

– Thời nay không có Phật pháp, làm sao mà kiếm ra được?

Nhà vua lại ra lệnh:

– Khanh không làm được việc này, ta sẽ giết khanh.

Khi nghe vua phán như vậy, vị ấy tâm ý buồn rầu liền trở về nhà. Vị đại thần có một người cha già tuổi rất cao, bất kỳ khi nào về nhà ông cũng luôn tỏ ra vui vẻ để làm vui lòng người cha, nhưng hôm đó người cha thấy sắc mặt của con khác thường, ông liền hỏi con có chuyện gì xảy ra. Người con nói ra sự việc. Người cha nói:

– Nhà ta có cây trụ, ngày đêm phát ra ánh sáng con thử phá ra xem sao, chắc có vật gì kỳ lạ bên trong. Nghe theo lời cha, người con sai người cầm rìu bổ cây, lấy ra được hai quyển kinh: Một quyển kinh Thập Nhị Nhân Duyên và một quyển văn thọ giới Bát quan trai. Vị đại thần liền đem dâng vua, vua rất mừng đến nỗi mất tự chủ, vua liền sai lấy mâm vàng đặt quyển kinh lên biếu cho rồng, rồng nhận được kinh lòng rất hân hoan, đem rất nhiều báu vật dâng tặng cho vua. Rồng liền thọ trì tám phép trai giới một cách tinh tấn chuyên cần. Sau khi mạng chung liền sinh Thiên giới. Nhà vua cũng vậy, lo tinh tấn tu tập Bát quan trai giới nên sau khi chết cũng sinh lên cõi trời cùng ở một chỗ.

Đến đây, Đức Phật dạy:

– Này A-nan đêm hôm qua hai vị trời ấy đến nghe Ta thuyết pháp chứng được quả Tu-đà-hoàn, vĩnh viễn ra khỏi ba đường, dạo đi trong cõi trời, cõi người, sau cùng sẽ đắc được đạo quả Niết-bàn. Đức Phật dạy xong, tất cả trong chúng hội đều hoan hỷ phụng hành.