Phật Thuyết
ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM
THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC KINH GIẢI DIỄN NGHĨA
Hòa thượng Tịnh Không chủ giảng
Ngài Hạ Liên Cư hội tập
Cụ Hoàng Niệm Tổ chú giải
Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa chuyển ngữ
Diệu Âm Phổ Hạnh kính ghi và đúc kết
Phật lịch 2563 -2019

 

III. KHÁI LƯỢC VỀ HỘI TẬP KINH VÔ LƯỢNG THỌ

Kinh Vô Lượng Thọ được xem là kinh bậc nhất của Tịnh Tông, nhưng rất tiếc kinh điển quí báu thù thắng này đã bị chìm lấp trong Đại Tạng Trung Hoa đến hơn ngàn năm! Theo thuyết giảng của Hòa Thượng thượng Tịnh hạ Không cũng như lời giới thiệu của Thượng tọa Thích Giác Toàn trong “Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giản Chú Dịch Giải” (biên soạn: Pháp sư Tịnh Không; người dịch: Nguyên Trừng): từ đời Hán đến đời Tống, Kinh Vô Lượng Thọ tổng cộng có mười hai bản Hán dịch. Sau đời Tống Nguyên chỉ còn lại có năm bản Hán dịch gốc:

  1. “Vô Lượng Thọ Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh” do Chi- lâu-ca-sấm đời Hậu Hán dịch.
  2. “A Di Đà Kinh” do Chi Khiêm đời Ngô (thời Tam Quốc dịch).
  3. “Vô Lượng Thọ Kinh” do Khương Tăng Khải đời Tào Ngụy dịch.
  4. “Vô Lượng Thọ Như Lai Hội” do Bồ Đề Lưu Chí đời Đường dịch.
  5. “Phật thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Kinh” do Pháp Hiền đời Triệu Tống dịch.

Theo chú giải của cụ Hoàng Niệm Tổ: Xét đến nguyên nhân, năm bản dịch gốc có nhiều chi tiết rộng, lược sai biệt khá lớn. Ví dụ về đại nguyện của đức Phật A Di Đà, trong hai bản dịch đời Đường và đời Ngụy có bốn mươi tám bản nguyện; nhưng hai bản dịch đời Ngô và Hán có hai mươi bốn, bản dịch đời Tống có ba mươi sáu bản nguyện, chứng tỏ các bản Hán dịch không phải dựa vào một Phạn bản duy nhất mà có nhiều Phạn bản khác nhau. Điều này cũng nói lên: Khi đức Phật còn tại thế giảng Kinh Vô Lượng Thọ không phải chỉ một lần mà ít nhất cũng phải năm, ba lần. Trong khi đó, những kinh khác Phật chỉ thuyết qua có một lần.

Năm 1883, Max Muller (người Đức) và Nam Điền Văn Hùng (người Nhật) cho xuất bản một Phạn bản Kinh Vô Lượng Thọ và Max Muller dịch ra Anh ngữ. Năm 1908, Nam Điền Văn Hùng dịch ra Nhật ngữ. Năm 1917, Địch Nguyên Vân Lai dựa theo một Phạn bản khác và một bản Tạng dịch của kinh được tìm thấy ở Nepal, đính chính Phạn bản đã công bố trước đó, rồi dịch ra Anh ngữ và Nhật ngữ.

Cũng theo chú giải của cụ Hoàng: Đối với kẻ sơ tâm học Phật, nếu chuyên trì một bản dịch thì khó bề hiểu rõ ý chỉ sâu xa. Nếu đọc cả năm bản càng gian nan! Vì vậy trước đây đa số bỏ kinh này, dồn sức vào nghiên cứu Kinh Di Đà. Đầu đời nhà Thanh, cư sĩ Bành Thiệu Thăng nói: “Kinh này ít được xiển dương thì quả thật do chúng ta thiếu cội lành”. Thật đúng như vậy! Thế nên, các đại cư sĩ Vương Nhật Hưu đời Tống, Bành Thiệu Thăng, Ngụy Thừa Quán đời Thanh đều vì hoằng dương kinh này mà mỗi vị trước sau soạn ra hội bổn và tiết bổn (hội bổn là bản hội tập các bản dịch hiện có; tiết bổn là chia bản kinh thành từng đoạn, đánh số, đặt tiểu đề).

Cư sĩ Vương Nhật Hưu đời Tống từng viết cuốn “Long thư Tịnh Độ Văn” được bốn biển khen ngợi, truyền tụng tới nay. Ông Vương khi lâm chung đứng ngay ngắn vãng sinh, đủ chứng minh cư sĩ thật là bậc hạnh giải đều ưu việt, là bậc tại gia, đại đức thù thắng hi hữu của Tịnh Tông Trung Hoa. Ông Vương tiếc nuối bảo điển bị bụi phủ, bèn hội tập bốn bản dịch các đời Hán, Ngụy, Ngô, Tống của Kinh Vô Lượng Thọ soạn thành một bản, đặt tên là Đại A Di Đà Kinh. Bản của ông Vương ra đời được cả nước khen ngợi là tiện lợi, được các tòng lâm lấy làm khóa bổn (kinh đọc tụng trong các thời khóa công phu hàng ngày) lưu truyền phổ biến còn hơn cả bản dịch gốc.

Càn Long Đại Tạng Kinh của Trung Hoa và Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng của Nhật đều thu thập bản hội tập của ông Vương vào Đại Tạng. Liên Trì Đại Sư nói: “Bản hội tập của ông Vương so với năm bản dịch thì giản dị, rõ ràng hiện đang phổ biến, lợi ích rất lớn”. Vì thế, trong “Di Đà Sớ Sao”, mỗi khi dẫn chứng Kinh Vô Lượng Thọ, đa phần ngài đều trích dẫn từ bản của ông Vương. Cận đại, Ấn Quang Đại Sư khi viết lời tựa cho lần tái bản bộ “Viên Trung Sao”, cũng khen bản của ông Vương là “Văn nghĩa tường tận, lưu thông khắp nơi”.

Tuy bản hội tập của ông có công rất lớn đối với Tịnh Tông, nhưng cũng có nhiều điểm sai sót. Ngọc trắng có vết, hiền giả xót xa! Liên Trì Đại Sư chê rằng: “Sao phần trước, viết thêm phần sau, phần lấy bỏ chưa trọn vẹn”. Bành Thiệu Thăng cư sĩ chê “lộn xộn, trái nghịch nhau, chẳng phù hợp với ý chỉ viên dung”.

Dựa vào lời phê của các bậc cổ đức, cụ Hoàng Niệm Tổ trộm nêu ra ba khuyết điểm của ông Vương:

– Một là bản hội tập của ông Vương chỉ dựa trên bốn bản, chưa dùng bản dịch đời Đường. Bản dịch đời Đường mang tên “Vô Lượng Thọ Như Lai Hội” trích từ Kinh Đại Bảo Tích do Đại sư Bồ Đề Lưu Chí dịch, lời văn có nhiều điểm áo diệu tinh yếu mà các bản dịch khác không có.

– Hai là phần lấy, phần bỏ chưa trọn vẹn: Chọn phần rườm rà, bỏ phần trọng yếu, biến sâu thành cạn. Chẳng hạn như Liên Trì Đại sư quở rằng: “Như ba bậc vãng sanh, bản dịch đời Ngụy đều nói là phát Bồ Đề Tâm, mà bản họ Vương chỉ nói là bậc Trung phát Bồ Đề tâm. Bậc Hạ bảo chẳng phát, bậc Thượng lại chẳng nói, thành ra cao thấp chẳng thứ tự. Vì vậy, bảo là chưa trọn vẹn”. Do câu trên, thấy rằng “bậc Thượng chẳng nói” là bỏ chỗ trọng yếu, “bậc hạ lại nói chẳng phát” chính là biến sâu thành cạn. Vì vậy, Liên Trì Đại Sư cùng ông Bành đều quở trách.

– Ba là tự ý thêm văn, nghiễm nhiên tự sáng tác. Họ Vương hay dùng lời văn mình sáng tác ra để diễn thuật nghĩa của bản gốc. Vì vậy, Liên Trì Đại Sư quở rằng: “Sao phần trước, thêm phần sau, chưa theo đúng phép dịch thuật”. Ngài trách ông Vương sao dẫn kinh văn nơi phần trước, rồi tiếp đó chép thêm lời văn ông tự soạn. Nếu đã là hội tập, cần phải dựa theo bản dịch gốc, muôn phần chẳng được dùng câu nào ngoài bản dịch gốc. Thấy được những khuyết điểm trên của họ Vương, không có nghĩa là chẳng nên hội tập, mà chỉ để thấy rằng hội bản của ông ta có nhiều tỳ vết. Cư sĩ Bành Thiệu Thăng cảm khái trước lỗi lầm của hội bản họ Vương, bèn dùng bản dịch đời Ngụy chia thành từng mục, tạo thành bản Kinh Vô Lượng Thọ thứ bảy, nhưng bản này chỉ là tiết bản của bản dịch đời Ngụy.

Cuối đời nhà Thanh, cư sĩ Ngụy Thừa Quán (tự là Mặc Thâm) nhằm cứu vãn khuyết điểm của ông Long Thư (hiệu của ông Vương Nhật Hưu), bèn dùng cả năm bản dịch gốc hội tập thành một bản. Ban đầu đặt tên là Kinh Vô Lượng Thọ, sau đó ông Chánh Định Vương Canh Tâm đổi thành “Ma Ha A Di Đà Kinh”. Lời văn bản hội tập của ông Ngụy giản dị, trong sáng, chọn lọc thích đáng, vượt xa bản họ Vương, nhưng vẫn vướng căn bệnh thêm văn chưa hoàn toàn dứt hết được. Do đó, bản của họ Ngụy cũng chưa tận thiện.

Tiên sư là cư sĩ Hạ Liên Cư, trí cùng đủ, thông Tông lẫn Giáo, viên dung “Hiển, Mật, Thiền, Tịnh”, nhất tâm, chuyên hoằng dương “Trì Danh Niệm Phật” nhiếp vạn đức. Do hoằng dương Tịnh Tông nên ngài mong mỏi bản kinh đệ nhất của Tịnh Tông này sẽ được vẹt bụi tỏa sáng, nguyện ước bản kinh vô thượng này lợi lạc đời sau, bèn kế tục tiền hiền, tiến hành hội tập lần nữa, vứt bỏ vạn duyên đóng cửa ba năm, tịnh đàn, kết giới, lắng tâm, tồn chí, sửa bản thảo mười lần mới hoàn tất.

Đầu tiên, được vị lão pháp sư thấu triệt cả Tông lẫn Giáo là Huệ Minh, tay cầm hội bản chụp hình trước Phật điện để chứng minh. Kế đó, vị đại đức trong Luật tông là lão Pháp sư Từ Châu chuyên giảng kinh này ở Tế Nam, đích thân phân khoa, giảng giải. Cậu của Hoàng Niệm Tổ là Mai Quang Hy cũng giảng kinh này trên đài phát thanh trung ương, khen là hội bản tốt nhất. Sau đấy, trong phần lời tựa của kinh, ông còn viết: “Tinh đáng, minh xác, hiển nhiên có căn cứ. Không một nghĩa nào chẳng lấy từ bản dịch gốc. Không một câu nào vượt ngoài bản gốc. Làm rõ ràng những chỗ khó khăn, thô tháp, tối nghĩa. Với chỗ phiền phức rườm rà làm cho đơn giản gọn gàng; chỗ lộn xộn, lôi thôi biến thành nghiêm chỉnh; chỗ thiếu sót làm cho viên dung; chỗ tốt đẹp đều được đầy đủ; không sự thực nào chẳng được thâu lấy trọn vẹn. Tuy muốn chê là bản chẳng hay cũng vô phương”.

Vì vậy, từ khi hội bản của tiên sư ra đời đến nay, chẳng có chân mà đi khắp chốn. Các bậc tôn túc Phật giáo cho rằng hội bản này giản dị, nghĩa phong phú, câu cú lưu loát, nghĩa lý viên dung, nên nó được giảng thuyết, tán dương, lưu truyền cả trong nước lẫn hải ngoại. Người thấy kẻ nghe hoan hỉ tín thọ, trì tụng, ấn hành liên tục chẳng dứt.

Gần đây, hội bản này được giới học Phật hải ngoại đưa vào Tục Tạng trong lần ấn hành mới nhất. Mừng được thấy quang minh của Đại Kinh thường chiếu thế gian, cái nguyện thù thắng hội tập của tiên hiền nay đã viên thành. Bản Kinh Vô Lượng Thọ hoàn thiện nhất nay đã hiện diện, ấy thật là đại sự nhân duyên hi hữu khó gặp vậy.

Theo Hòa Thượng Tịnh Không: Hoàng Niệm lão được tiên sư giao phó đại sự chú giải hoằng dương kinh này. Ông đã từng theo học dưới giảng tòa của thầy, đích thân nghe toàn bộ kinh này suốt hai mươi năm. Đầu thập niên sáu mươi, ông từng thử viết đề cương huyền nghĩa kinh này trình lên thầy duyệt, được thầy ấn khả. Nhưng, trong kiếp nạn cách mạng văn hóa, bản thảo ấy đã bị hủy mất chẳng còn chút gì! Đến tuổi đã ngoài bảy mươi, lại lắm bịnh cũ, thẹn chưa báo ân sâu, sợ vô thường chợt đến nên gắng gượng tấm thân già bệnh, kế tục hoằng thệ truyền đăng, đem thân tâm cúng dường Tam Bảo, đóng cửa tạ khách, toàn lực chú giải kinh này.

Theo nhận định của Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa về sách chú giải Kinh Vô Lượng Thọ của lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ với tựa đề Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh Giải: “Xét về mọi mặt, tác phẩm này không thể nào sánh kịp với hai bản chú giải trân quí “Di Dà Yếu Giải” và “Di Đà Sớ Sao” của cổ đức, nhưng so với những bản chú giải Kinh Vô Lượng Thọ trong Đại Tạng, bản chú giải của cư sĩ Hoàng Niệm Tổ rất tỉ mỉ, tổng hợp nhiều lời giải thích của chư tôn cổ đức Trung Hoa, Nhật.

Hoàng lão cư sĩ cũng khéo trích dẫn những đoạn kinh luận khiến cho người đọc hiểu được tường tận Kinh Vô Lượng Thọ. Với mỗi lời nguyện, Hoàng cư sĩ đều chú giải nguyên do. Đến phần nói về chánh báo, y báo trang nghiêm Cực Lạc, Hoàng cư sĩ giảng tỉ mỉ những thứ trang nghiêm ấy do mỗi bổn nguyện nào kết thành.

Điểm đặc biệt hơn nữa là Hoàng cư sĩ đã khéo dung hội những quan điểm khác nhau của Thiền, Tịnh, Mật khiến cho người đọc thấy rõ pháp vị dung thông, nhất như giữa các pháp môn, làm nổi bật bản hoài vĩ đại của chư Phật; khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật cho chúng sinh. Ngoài ra, đối với những từ ngữ Phật học chuyên biệt được dùng trong bản kinh này, Hoàng lão cư sĩ cũng chẳng tiếc công chú giải tường tận”.

Theo Hòa Thượng Tịnh Không: “Hoàng Niệm lão viết chú giải này đã trích dẫn rất nhiều nguyên văn kinh luận để chúng ta tham khảo. Công đức này thật vô lượng vô biên. Chúng ta muốn tìm nhiều sách như vậy cũng không tìm thấy. Đọc bộ chú giải này chính là đọc một trăm chín mươi ba loại tư liệu quan trọng trong kinh luận, giúp chúng ta phá mê sanh tín, giúp chúng ta quay đầu là bờ, giúp chúng ta kiên định tín tâm, đời này nhất định được về Tịnh Độ. Ngày nay, chúng ta gặp được kinh này, gặp được chú giải tường tận của Hoàng Niệm Tổ, nhận thức của chúng ta đối với Phật A Di Đà và thế giới Cực Lạc lại càng nâng cao một bậc. Đây là chín ngàn năm thời mạt pháp, gặp được Phật pháp có thể thật sự một đời thành tựu, vãng sinh Cực Lạc, chính là bộ kinh này, là chú giải này.

Kinh Vô Lượng Thọ là đệ nhất đại kinh của Tịnh Độ Tông. Chúng ta nay có được bản hội tập hoàn thiện viên mãn của lão cư sĩ Hạ Liên Cư, có khoa hội, có chú giải của cư sĩ Hoàng Niệm Tổ, lại có thêm lần diễn giảng này của Đại lão Hòa Thượng, thật là duyên thù thắng biết bao! Pháp môn này về sau nhất định “phổ văn”, phát triễn rộng rãi, được chư Phật hộ niệm, chư Bồ Tát hộ trì. Kinh Vô Lượng Thọ, bản hội tập này nhất định đem đến cho thế gian thông tin Chánh pháp trụ thế lâu dài, đem đến ánh sáng vô hạn, phước đức vô hạn. Tất cả chúng sinh y theo kinh này, đều có thể liễu sanh thoát tử, ra khỏi tam giới. Đây là sự thật!