NHÂN SINH YẾU NGHĨA
Hòa Thượng Tuyên Hóa
Thích Minh Định dịch

Thiền Thất Khai Thị

Giảng tại Kim Sơn Thánh Tự

Hôm nay chúng ta bắt đầu khóa thiền thất mùa đông. Từ Tâm Kinh tôi đề ra vài câu Kinh để đàm đạo. Quán Thế Âm Bồ Tát chứng đắc nhĩ căn viên thông. Ngài chứng đắc như thế nào? Ngài tu phản văn văn tự tính. Tính thành vô thượng đạo, cho nên có thể quán tự tại. Tự tại là không ta, không người, không chúng sinh, không thọ mạng, bốn tướng.

Tự tại là tại đâu? Tại địa vị Thánh nhân thì là tự tại. Tại địa vị phàm phu thì không tự tại, tại sao tại địa vị Thánh nhân được tự tại? Vì bậc Thánh nhân không có bốn tướng là tướng người, tướng ta, tướng chúng sinh và tướng thọ mạng, cho nên được tự tại. Phàm phu vì có tướng người, tướng ta, tướng chúng sinh, tướng thọ mạng, bốn tướng, nên không được tự tại.

Phần đông người học Phật pháp, lâu thời chấp trước tướng người, tướng ta, tướng chúng sinh, tướng thọ mạng. Bốn tướng ở trên chẳng thể không thì làm sao được tự tại? Nếu muốn được tự tại thì phải thấu rõ ba tâm, trừ bốn tướng. Ba tâm tức là: Tâm quá khứ không thể được, vì tâm quá khứ đã qua rồi, hà tất phải tìm cầu? Tâm hiện tại không thể được, tuy nói là hiện tại nhưng chuyển nháy mắt cũng là hư vọng. Cho nên tâm hiện tại cũng không thể được, tâm vị lai không thể được. Vì vị lai thì chưa đến, hà tất phải nghĩ tưởng, cho nên tâm vị lai cũng không thể được. Nếu thấu rõ được ba tâm, bốn tướng đều không, tức là Quán Tự Tại Bồ Tát.

Chúng ta đả thiền thất tức là quán tự tại. Người người có thể quán tự tại. Không phải là chỉ có Quán Thế Âm Bồ Tát mới quán tự tại. Ai có thể tự tại tức là quán tự tại. Ai không tự tại tức không phải quán tự tại. Trên danh nghiã không có nhứt định. Hết thảy chúng sinh đều có thể quán tự tại.

Chúng ta ngồi thiền cũng là để nhìn xem, chúng ta có thể quán tự tại hay không? Nếu có thể quán tự tại, tức sẽ nhìn thấy năm uẩn đều không, cũng là đi sâu vào Bát Nhã Ba La Mật. Nếu được như thế mới có thể độ hết thảy khổ ách, hết thảy khổ đều không, cho nên được tự tại. Quán Thế Âm Bồ Tát với chúng ta là hợp mà làm một. Không riêng Quán Thế Âm Bồ Tát như thế mà mười phương chư Phật cũng khế hợp với chúng ta mà làm một. Tuy nhiên Bồ Tát hợp với chúng ta mà làm một nhưng chúng ta không có hợp với Bồ Tát mà làm một. Như Kinh Diệu Pháp Liên Hoa nói: Vị “cùng tử”, vị cùng tử vốn là con của vị trưởng giả giàu có, bỏ cha giàu có đi lang thang thành kẻ ăn mày, lâu rồi quên luôn cả cha. Tuy gặp lại cha mà không nhận ra, mọi người muốn xa lìa điên đảo mộng tưởng. Còn vị “cùng tử” thì xa lìa cha mẹ, đi ra ngoài làm kẻ ăn mày. Chúng ta xa lìa Phật, tức giống như vị “cùng tử” rời bỏ và quên cha mẹ. Chúng ta vốn với chư Phật đồng một nhà, cho nên:

“Hết thảy chúng sinh,
Ðều có Phật tính,
Ðều có thể thành Phật”.

Chúng ta đi lang thang phiêu lạc bên ngoài, quên nhà cửa, cho đến pháp thân cha mẹ, mười phương chư Phật Bồ Tát, chúng ta cũng quên luôn. Hiện tại chúng ta ngồi thiền là muốn:

“Biển khổ không bờ,
Quay đầu là bến”.

Tìm lại pháp thân của chúng ta, cho nên mới thành lập 98 ngày thành thất này. Khóa thiền thất này đối với người tây phương mà nói, vốn là nghe chỗ chưa nghe, thấy chỗ chưa thấy. Từ chỗ chưa có người chân chân thực thực tu hành như thế. Nếu bạn có thể trong 98 ngày thiền thất, lão lão thật thật, quán tự tại thì đừng sợ khổ. Từ sáng sớm ba giờ bắt đầu dụng công cho đến mười hai giờ khuya mới đi nghỉ. Mỗi ngày ngồi thiền hai mươi mốt tiếng, nghỉ chỉ có ba tiếng.

Năm nay tôi lấy làm hoan hỉ, có mấy vị Tỳ Kheo và Tỳ Kheo ni người Mỹ phát tâm, thường ngồi không nằm (ngủ ngồi), từ sáng đến tối ở trong thiền đường dụng công ngồi thiền, tối ngủ cũng ở trong thiền đường dụng công. Lúc trước tôi tham gia đả thiền thất thì cũng tranh thủ dụng công từng giây, từng phút, không để thời gian trôi qua lãng phí. Cho nên tại Hương Cảng có vị trưởng lão hòa thượng, râu dài pháp hiệu là Minh Quán nói: “Tôi và ông ta (Hòa Thượng Tuyên Hóa) cùng ngồi bảy bảy bốn mươi chín ngày”. Thật ra không phải bốn mươi chín ngày mà là bảy chục ngày. Lão Hòa Thượng đó là người chân chánh tu hành, tôi thì chẳng tu hành. Nhưng Lão Hòa Thượng đó với tôi kẻ chẳng tu hành, ngồi thi với nhau, kỳ cổ tương đương, không phân anh em. Cho nên lão hoà thượng đó đối với quý vị nói, tôi ngồi được bốn mươi chín ngày, tôi vốn đã quên chuyện này. Sau tôi nghĩ lại mới nhớ có thật sự.

Chúng ta đang bắt đầu thiền thất, mọi người đều có thể Quán Tự Tại Bồ Tát, mọi người đều muốn đi sâu vào Bát Nhã Ba La Mật, mọi người cũng muốn nhìn thấu năm uẩn đều không: Sắc, thọ, tưởng, hành, thức năm uẩn, đều bị chiếu thấu, chiếu không, chiếu hóa cho đến không. Vô sở không (không chỗ không), sở không (chỗ không) cũng không, trong suốt vắng lặng, độ hết thảy khổ ách, liền được tự tại.

Người tây phương không hiểu nghĩa chữ “tự tại”, cho nên không biết chữ “tự tại” là gì. Tự tại là “Vô nhân tướng” (không thấy có tướng người). Vô nhân tướng cũng chẳng phải, khi ăn thì chỉ biết có mình ăn, không nhường cho người khác ăn. Khi làm việc thì sợ khổ nhọc, liền nghĩ tưởng, “Vô ngã tướng” (không thấy có tướng ta), bèn đẩy việc cho người khác. Cũng không phải nói lúc đấu tranh, thì trong tâm bạn tưởng “Vô chúng sinh tướng” (không thấy có tướng chúng sinh). Tức với chúng sinh đấu tranh, lại cũng chẳng phải nói ăn thịt, thì không thấy có tướng chúng sinh. Nếu tôi không ăn thịt chúng sinh, thì chúng sinh sống hoài không chết, đó không phải là không có tướng thọ mạng sao? Ðây là hoàn toàn sai lầm.

Không tướng người tức là trong tâm bạn phải thấy không có ta, người, không thấy có chúng sinh, không thấy có thọ mạng. Thấy không như thế, mới không có tướng ngã chấp, không có pháp chấp, ngã chấp và pháp chấp đều không. Lúc này bạn muốn không tự tại cũng không đặng, tức không người, không ta, không chúng sinh, không thọ mạng, lại không có chấp ngã, chấp pháp tức được tự tại, được chân chánh khoái lạc, cũng được chân chánh trí huệ.

Chúng ta ngồi thiền trong 98 ngày, mỗi ngày phải có một người thường trực, trách nhiệm “Khai tĩnh”, “Chỉ tĩnh”. Ðây là trách nhiệm của vị duy na. Mỗi ngày luân phiên làm duy na. Riêng ngoài có một vị, lo chuẩn bị trà nước, vì người dụng công ngồi thiền, hay có hỏa khí cho nên cần uống trà. Trong một ngày có thể uống bốn lần trà. Tùy người cần mà định liệu. Uống trà thì không nên làm đổ bể ly tách, bắt chước lão Hòa Thượng Hư Vân, làm rớt bể ly trà rồi mới khai ngộ. Bạn cũng cố ý làm rớt bể ly trà, phải biết:

“Vô tâm thì cảm ứng,
Khởi tâm thì vọng tưởng”.

Trong thời gian ngồi thiền, bất cứ người nào cũng không được nói chuyện, luôn luôn chuyên tâm chiếu cứ thoại đầu, tức đừng nói chuyện với người khác, chuyên tâm nhất trí lợi dụng 98 ngày dụng công tu hành, ai không dụng công tu hành, sẽ bị phạt quỳ một trăm ngày, vì để thời gian trôi qua lãng phí. Nếu có thể nội trong 98 ngày mà khai ngộ, không những không bị phạt, mà tôi còn mời bạn ăn “Trai khai ngộ” (nếm mùi vị giải thoát). Bạn nghĩ ăn gì thì có nấy, thức ăn trăm vị cho nên “Thiên trù diệu cúng, thiền duyệt vi thực”. Ðại khái bạn sẽ trở thành một phần tử, quang vinh nhất trong Phật giáo.

Nói tóm lại mỗi người đều phải giữ quy cụ, nếu không giữ quy cụ, thì chẳng thể khai ngộ. Ðả thiền thất là vô tướng, mọi người đều muốn tìm bản lai diện mục (bộ mặt thật) của chính mình. Muốn đạt đến vô câu vô thức, vô quái, vô ngại. Ði thì không cần quá nhanh, cũng đừng quá chậm, hai tay không nên để trước thân. Tuy nhiên niệm danh hiệu Phật, thì hai tay kết Di Ðà Phật thủ ấn. Nhưng thiền thất thì phải vô câu, vô thúc. Cho nên chạy hương thì hai tay, trước sau phải mở ra, tư thế phải tự nhiên. Lúc đả thiền thất thì lễ nghĩa làm ở chánh điện, khóa lễ sáng, tối và lạy Phật, chắp tay hết thảy đều miễn. Vì phương tiện mọi người, chuyên tâm dụng công. Phải chuyên tâm tham “Niệm Phật là ai?” Tham thiền thì bất cứ, đi, đứng, nằm, ngồi, cứ tham “Niệm Phật là ai?” Câu thoại đầu này phải thực hành đến cảnh giới không ta, không người. Cho nên có câu:

“Suốt ngày ăn cơm, chưa ăn một hạt cơm,
Cả ngày mặc áo, chưa mặc một sợi tơ “.

Quên hết tất cả, chỉ chú ý tìm bản lai diện mục. Tham thiền thì, không những không lạy Phật, mà còn phải:”Phật đến chém Phật, ma đến chém ma”, khắc kỳ thủ chứng, vì mục tiêu tìm cho được bản lai tự tính Phật của chính mình.

Chúng ta không tông phái, tức chẳng phải tông Lâm Tế, cũng chẳng phải tông Tào Ðộng, cũng không phải tong Vân Môn, cũng không phải tong Pháp Nhẫn. Chúng ta dùng lễ đúng đắn làm gốc, không chỗ tạo tác, chuyên tâm tham thiền. Khóa tinh tấn tham thiền này, tại các nước tây phương, từ trước chưa từng có. Chân chánh tinh tấn tham thiền, cũng giống như một loại đá kim cương, chẳng phải nhìn thấy các nơi.

Hiện tại thiền thất sẽ bắt đàu, trước hết tôi thử các vị, nếu tôi đánh các vị, các vị cũng đừng sợ, cũng không biết đau. Ðó là biểu hiện các vị đã có thể buông xả. Ngược lại các vị cảm giác đau, thì các vị chưa buông xả được. Nếu ai sợ đánh thì bây giờ còn có thể đi ra, nếu không sợ đánh thì ở lại thử xem. Các vị không có ai đi ra, tức nhiên các vị không sợ đánh, các vị đều là đại trượng phu. Tức nhiên đại trượng phu, ngồi thiền sẽ có cơ hội khai ngộ.

“Ðại địa xuân về trăm vật sinh,
Ðập vụn hư không tự tại ông,
Từ nay chẳng còn tướng ta, người
Pháp giới tuy lớn tận bao dung”.

Chúng ta tham thiền, thì có cơ hội khai ngộ, tự tính quang minh hiện tiền, như xuân về đại địa trăm vật sinh trưởng. Hư không vốn vô hình. Mặc dù hư không vô hình, nhưng cũng bị đập vụn, thì bạn sẽ được tự tại. Từ đây không còn chấp trước: Tướng ta, tướng người. Tướng ta, tướng người đều không. Pháp giới tuy rộng lớn, ta cũng có thể bao dung hết, đó chẳng phải là bậc đại trượng phu chăng?

Tham thiền có thể tham câu:”Niệm Phật là ai?” Hoặc câu:”Bản lai diện mục khi cha mẹ chưa sinh ra”, hoặc câu:”Vật gì không thể không có”. Mấy câu thoại đầu này, các vị có thể chuyên tâm nhất trí tham cứu, tất sẽ có cơ hội khai ngộ.

Các vị Thiện tri thức! Tại sao tôi gọi các vị là Thiện tri thức? Nếu các vị không có đại trí huệ, thì cũng không thể nào đến “Bát Nhã Giảng Ðường” này. Giảng đường này gọi là “Bát Nhã Ðường”. Bát Nhã là tiếng Phạn, dịch là trí huệ. Cho nên các vị đều có đại trí huệ, mới có thể đến Bát Nhã Ðường này. Tại sao các vị có đại trí huệ? Vì trong quá khứ đã trồng nhiều căn lành, cũng đã trồng hạt giống bồ đề không ít, hoặc trong quá khứ đã từng cúng dường Phật, Pháp, Tăng, Tam Bảo. Nay nhân duyên chín mùi, mới tham gia thiền thất. Ðây chẳng phải là nhân duyên nhỏ, mà là nhân duyên lớn, cũng là nhân duyên chấm dứt sinh thoát tử, cũng là nhân duyên thành Phật. Cho nên tôi gọi các vị là thiện tri thức. Thiện tri thức và Ác Tri Thức hoàn toàn khác nhau. Ác Tri Thức là tà tri tà kiến. Thiện tri thức là chánh tri chánh kiến. Hành vi việc làm của thiện tri thức đều y chiếu theo Phật pháp. Nhứt cử nhứt động đều tương ứng với Phật pháp.

Các vị hôm nay đến “Bát Nhã Ðường” là hy vọng có thể đại triệt ngộ, có thể hiểu biết chân chánh. Muốn hiểu biết chân chánh, tức phải tu từng chút, từng chút. Ðừng sợ khổ, đừng sợ khó. Ngồi thiền thì chân đau cũng không sợ, phải có tinh thần không sợ hãi, dù chết cũng ngồi thiền. Kiên trì nhẫn nại, không thể thối thất, giống như tôi dùng hương bản đánh các vị. Cho nên chân đau, lưng đau cũng phải nhẫn, buồn ngủ cũng phải nhẫn. Tham thiền, tham đến “dương khí đầy đủ”, thì con ma buồn ngủ cũng phải chạy đi. Nếu không tác chiến với con ma buồn ngủ thì vĩnh viễn bị hôn trầm ám ảnh.

Chúng ta phải tu học trí tuệ, cầu trở về nguồn gốc, nhận thức bản lai diện mục (bộ mặt thật) của chính mình. “Bộ mặt thật” của chúng ta như thế nào? “Bộ mặt thật” của chúng ta và Phật không hai, không khác. Nhưng do nơi một niệm vô minh che mất trí tuệ, mới không nhận ra “bộ mặt thật”. Càng chạy càng xa, cho đến suốt ngày điên đảo, sinh ra trong cơn say, chết đi trong ảo mộng. Ðó không phải thật đáng thương xót chăng? Tại sao chúng ta điên đảo như thế? Là vì chúng ta chưa gặp được bậc thiện tri thức, chỉ dẫn con đường trở về cội nguồn. Hôm nay các vị đều tụ tại đây, cùng tìm bản lai diên mục. Cho nên:

“Mười phương đồng tụ hội
Ðều cùng học vô vi
Ðây là trường tuyển Phật
Tâm không và đệ quy”.

“Bát Nhã Ðường” này là trường tuyển Phật, ai có thể không còn tướng ta, tướng người, chân chánh nhìn xuyên thủng, buông xả, thì người đó sẽ được tuyển chọn, cho nên nói “Tâm không và đệ quy”. Chúng ta tụ lại một chỗ, thi tuyển trạng nguyên, hiện tại chúng ta đang khảo Phật.

Phật cứu kính là gì? Tôi cũng không biết, cũng không nghĩ khảo bạn, tức nhiên không nghĩ khảo Phật. Làm người bạn muốn làm vĩ nhân chăng? Muốn làm đại anh hùng, đại hào kiệt chăng? Ðại anh hùng tức là “Ðại Giác”. Ðại Giác tức là Phật. Ðại vô úy (không sợ sệt), mới không sợ đánh, không sợ đau, nếu có thể không còn tướng ta, tướng người, thì không sợ đau. Nếu còn cái “ta” thì sợ đánh, lại sợ đau. Muốn trừ khử chấp cái ta thì không sợ đánh, không sợ đau. Bạn nói “Tại đây làm sao không có cái ta được?” Bạn ở tại đây, ai lại không ở tại đây? Không ở tại đây lại là ai? Cho nên “Vô tại vô bất tại”, đó là không có cái ta. Vì vô tại cho nên không có cái ta. Nếu “Có tại”, thì “Có cái ta”, có tại tức phải “Tự tại”, không thể “Tồn tại cái ta”. “Có cái ta” thì có phiền não, ngủ không đủ thấy khó chịu, ăn ít cảm thấy đói, mặc ít lại sợ lạnh, đều do có cái ta tác quái. Nếu muốn không còn cái ta, thì phải ngồi thiền. Ngồi thiền thì đặng:

“Không người không ta Quán Tự Tại,
Chẳng không chẳng có thấy Như Lai”.

Thấy Như Lai pháp thân, tức là thấy bản lai diện mục của bạn. Cho nên phải nhẫn nhục, nhẫn đau nhẫn khổ, đánh đuổi hết thảy khốn nạn, chứng đắc hết thảy khoái lạc. Chuyện thiên hạ không thể một sớm một chiều mà có thể viên mãn được, phải nhẫn nhục, tâm thường hằng, dũng mãnh, kiên cố mới đặng thành công.

Ngồi thiền nếu không bị cảnh giới làm lay chuyển thì đạt được tâm bất động, thì có một chút định lực. Nếu có chút định lực thì sẽ sinh một chút huệ lực. Có một số người nghĩ muốn thọ giới, thật ra chúng ta đang ngồi thiền, đã thọ giới rồi. Thọ giới gì? Thọ giới khổ, giới đau.

Các vị ngồi một long tham thiền, tham câu:”Niệm Phật là ai?” Miên miên không ngừng, mật mật không quên, chỉ cứ tham thiền. Như vậy thì các vị có cơ hội tạo tội chăng? Có vọng tưởng giết người chăng? Nhứt định là không. Hoặc các vị có nghĩ ăn trộm chăng? Cũng không. Các vị tham thiền thì tức không giết người, lại không ăn trộm, thì đó không phải là đã trì giới sao! Tham thiền tức là trì giới, không trì mà trì, liền sinh định lực. Nếu các vị không tham thiền, mà vọng tưởng sát sinh, ăn cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu .v.v., dù chỉ trong một niệm cũng là tạo tội.

Tham thiền không khởi vọng tưởng, thì không trì giới mà trì. Tham thiền thì lại không định mà định. Tuy nhiên chân đau cũng chịu đựng không động, từ từ tài bồi định lực. Có định lực tự nhiên sẽ sinh huệ lực. Tham thiền tức là “Siêng tu giới định huệ, tức diệt tham, sân, si”. Tham thiền mới đầy đủ tất cả các pháp, tham thiền thì càng tham càng có trí huệ. Cho nên “Vàng thật thì không sợ lửa”, phải chịu đau.

Tại đây là lò luyện thành thân kim cang bất hoại. Có một số người nói, ngồi thiền thật là quá khổ, vậy thì ai biết khổ? Bạn nói “Tôi biết khổ”. Bạn lại là ai? Giả sử bạn tại thân của bạn, nếu như bạn chết thì thế nào? Bạn chết rồi thì bị người đánh cũng không biết đau. Bất cứ khổ thế nào cũng thọ được, tức nhiên chết rồi. Vấn đề gì cũng không còn nữa, các vị hiện tại cũng có thể làm như người chết,

“Nếu muốn người không chết,
Hãy làm người sống như đã chết”.

Bạn thử làm người sống như đã chết, thì không tham, không sân, không si. Tôi hiện tại tuy chưa chết, nhưng cũng giống người đã chết đi không khác. Không khởi tâm tham, không khởi tâm sân, không khởi tâm si. Bạn nếu muốn chấm dứt sinh tử, thì trước hết phải làm “Hoạt tử nhân” (người sống như đã chết), không nên nghĩ nhiều, chỉ cần chịu ngồi thiền.

Hôm nay là ngày thứ nhất, các vị cũng chưa cảm giác thế nào là khổ. Ðợi các vị tham quá vài tuần mới cảm thấy khổ mà không khổ. Chúng ta đả thiền thất, từ ba giờ sáng đã bắt đầu dụng công, đến 12 giờ khuya mới đi ngủ. Sợ có người chịu khổ không được, liền chạy về nhà, sự việc trên thế giới hầu hết như vậy.

“Thái quá” chịu không được, “Bất cập” chịu cũng không được, cho nên tốt nhất là giữ trung đạo. Có một số người, còn nhập “Ngủ tam muội”. Hiện tại chúng ta có đạo tràng, tu hành toàn thiện như thế này, có thể nói là cảm ứng mười phương chư Phật, và những người tinh tấn dụng công, nếu chân chánh dụng công, thì một người cũng không cho rằng ít, bằng không một vạn người, cũng không thể nói là nhiều. Vì người ở đây đều phát tâm đại bồ đề dụng công tu hành. Như trong Kinh Pháp Hoa có nói: “Chân tinh tấn, mới gọi là chân pháp cúng dường”.

Chúng ta tuy không đốt thân cúng Phật, nhưng không sợ khổ mà dụng công tu hành, cũng có thể cho rằng dùng thân cúng Phật, đặng minh tâm kiến tánh, chân chánh nhận thức chính mình. Tức nhiên pháp, tài và bạn tu đầy đủ, có đạo tràng toàn thiện, cũng phải có người tu đạo. Phật Thích Ca Mâu Ni, tại núi Tuyết Sơn tu sáu năm, mỗi ngày chỉ ăn một hạt mè. Sau đó đến cây bồ đề chứng quả. Hậu thế xưng các nơi đó là Thánh địa, cho nên “Nhân kiệt địa linh”, phàm là có Thánh nhân đến nơi nào, dù là nơi đó tầm thường, cũng biến thành “Thánh xứ”. Nếu chỉ có Thánh xứ (đất Thánh), mà không có Thánh hiền, cũng là tầm thường, cho nên “Thiên thời không như địa lợi, địa lợi không như nhân hòa”.

Chúng ta phải ở nơi Thánh xứ, mà tạo Thánh nhân, A La Hán, Bồ Tát và Phật. Ai không sợ khổ, thì có thể thành Phật. Nếu ai sợ khổ, cũng có thể thành Phật, nhưng phải đợi thời cơ thành thục, mới có thể thành Phật. Tôi có một lời nguyện rằng: “Phải đợi tất cả đệ tử của tôi, thành Phật hết, thì tôi mới thành Phật”. Cho nên tôi biết các bạn tương lai, đều sẽ thành Phật. Tức nhiên tôi đối với các vị, ký thác kỳ vọng to lớn như thế, các vị không thể cô phụ đợi chờ tôi.

Phật pháp là thế gian pháp, cũng là pháp xuất thế, pháp xuất thế không rời pháp thế gian. Pháp Bảo Ðàn Kinh có nói:

“Phật pháp tại thế gian,
Không lìa thế gian giác,
Lìa thế gian cầu bồ đề,
Ví như tìm sừng thỏ”.

Cho nên ở thế gian, có người xuất gia và tại gia, người xuất gia tu pháp, người tại gia làm hộ pháp, hộ trì Tam Bảo. Mỗi người giữ vững cương vị của mình, làm tròn trách nhiệm của mình, vậy cho nên thế giới này, có người tại gia, cũng có người xuất gia. Người tại gia hộ pháp, người xuất gia thì dụng công tu pháp.

Trong tâm tôi không có sự hoan hỉ, và không có sự không hoan hỉ, chỉ giữ trung đạo. Ðây là trung đạo liễu nghiã, tức là pháp trung đạo. Hết thảy các pháp đều là Phật pháp, tức nhiên hết thảy các pháp đều là Phật pháp thì sao lại có phân biệt, hoan hỉ và không hoan hỉ? Tham thiền thì dụng công ở phương diện này. Không có tâm chán ghét, cũng không có tâm hoan hỉ, chỉ là dụng công bình thường, như dòng nước chảy mãi, cặn bụi trong nước đều lắng trong, thì pháp thân của bạn liền hiện tiền.

Tối nay tôi nói với các vị, những điều căn bản, rất quan trọng. Nếu các vị có thể y theo tu hành, thì trí huệ sẽ tăng trưởng. Khóa thiền thất này là lần đầu tiên mở tại đất Mỹ, lại có nhiều người đến tham gia, thật khó mà nói được, đó là cảnh giới không nghĩ bàn, như uống nước lạnh, nóng tự mình biết. Ðối với người xuất gia mà nói, phải tiếp thọ sự rèn luyện này, mỗi khi gặp khóa thiền, phải đến tham gia, thậm chí không ngủ, không mặc đồ, không ăn cơm đều có thể được. Nhưng phải biết trân tiết cơ hội thiền thất thật hiếm có. Mười phương chư Phật đều đã trải qua pháp môn rèn luyện này. Chúng ta trong quá khứ, đời đời kiếp kiếp cũng chưa gặp cơ hội như vầy, cho nên đến hôm nay còn lẩn quẩn trong sáu nẻo luân hồi.

Chúng ta tham gia thiền thất rồi, mới không thể điên đảo thị phi, không thể khởi vọng tưởng, không thể còn tâm tham sân si, hoặc không thể có tâm tham cầu tài, sắc, danh, ăn và ngủ. Các vị tham thiền thì hay sinh định lực. Dầu có cảnh giới năm dục hiện tiền cũng không thể bị cảnh giới làm lay chuyển. Nếu không có tâm tham cầu năm dục thì trong mộng cũng thanh tịnh, tức chân chánh đắc được diệu dụng.

Lúc sáng suốt thì không bị cảnh giới làm lay chuyển, nhưng khi vô minh hiện tiền, hoặc lúc hồ đồ thì cũng khó mà không bị cảnh giới làm lay chuyển. Khi ngủ mà có thể làm chủ được thì không bị cảnh giới chuyển. Trong mộng làm chủ được không bị cảnh giới chuyển, nhưng lúc bệnh hoạn thân thể chịu không thấu, thì khó mà không bị cảnh giới làm lay chuyển, khiến cho bạn trong cơn bệnh cũng khó có thể làm chủ được. Ðến lúc chết thì cũng không thể tự chủ được. Mục đích ngồi thiền là nhìn xuyên thủng, buông xả mọi thứ, sống chết tự tại, hết thảy đều làm chủ được, đến đi tự tại, không quái không ngại.

Tham gia thiền thất là cơ hội trăm ngàn vạn kiếp khó gặp được, cho nên đừng có khinh thường bỏ qua cơ hội thù thắng nầy. Nhưng tham gia thiền thầt cũng phải đầy đủ nhân duyên mới có thể thành tựu. Nếu có người bận đi làm hoặc đi học không thể tham gia thì tương lai nhất định có cơ hội tham gia.

Tại sao không sợ khổ? Ðức Phật Thích Ca trong quá khứ Hằng hà sa vô lượng A Tăng Kỳ kiếp đã thành Phật, vì muốn giáo hóa chúng sinh cang cường khó dạy, mới thị hiện thành Phật. Ngài vốn là thái tử mà xả bỏ tất cả vinh hoa phú quý, đến núi Tuyết ngồi thiền sáu năm, mỗi ngày chỉ ăn một hột mè. Tại sao Ngài lại chịu khổ như thế? Vì thọ khổ được là cơ sở thành Phật. Cho nên thọ khổ được thì thật diệu dụng vô lượng vô biên. Nếu Phật không ngồi thiền ở núi Tuyết sáu năm, thì cũng không thể ngồi dưới cội bồ đề tĩnh tọa bốn mươi chín ngày mà chứng đắc quả vị Phật.

Chúng ta hiện tại ngồi thiền ở tại thiền đường, so với Phật đương sơ tại núi Tuyết thì có phương tiện hơn nhiều. Cho nên mọi người phải đề khởi tinh thần nỗ lực thành tựu sự phát tâm nguyện. Như Bồ Tát Vi Ðà tay cầm cái chày báu hàng ma. Hàng phục tất cả ma ngủ, thiên ma, tà ma, bệnh ma, tử ma .v.v., dù có chết cũng phải dụng công. Cho nên các vị phải phấn chấn nỗ lực dụng công.

Tuy nhiên nói phải dũng mãnh tinh tấn, nhưng không thể quá sức. Tu đạo phải giữ trung đạo, thái quá hoặc bất cập đều không tương ưng, chỉ cần dụng công, giữ tâm thường hằng, không nhanh không chậm, lâu ngày thì công phu sẽ tương ưng, liền được cảnh giới không thể nghĩ bàn. Ðắc được cảnh giới cũng đừng sinh tâm hoan hỉ, cũng đừng sinh tâm ưu sầu. Tóm lại, bất cứ cảnh giới thuận hay nghịch (tốt hoặc xấu) đừng động tâm, nếu tâm động thì thiên ma liền thừa hư mà nhập, có thể nhiễu loạn định lực của bạn. Nếu bạn sinh tâm hoan hỉ thì con ma hoan hỉ liền đến nhiễu loạn định lực của bạn. Nếu sinh tâm ưu sầu thì con ma khóc lại đến nhiễu loạn định lực của bạn. Con ma hoan hỉ đến thì khiến bạn tối ngày vô duyên vô cớ cứ cười mãi. Ðây là con ma cuồng nhập thể. Nếu sinh tâm bi ai thì khiến con ma khóc nhập thể, suốt ngày chảy nước mắt gào khóc. Tự mình cũng không biết vì cái gì mà khóc. Cho nên phàm là ai tu hành, không thể tùy tiện khóc cười. Khóc cười là sự tu đạo cột đá vào chân rất dễ khiến sinh tâm thối chuyển. Cho nên chúng ta ngồi thiền phải chú ý. Ðừng vì gặp cảnh giới nào đó, liền vui mừng hoặc sợ sệt. Phải biết cảnh giới là sự khảo nghiệm định lực của bạn đến trình độ nào mà thôi.

Kim cang là gì? Bồ Ðề Hải là gì? Kim cang là vĩnh viễn không bao giờ hư hoại. Bồ Ðề Hải tức là biển giác. Biển giác là một ví dụ. Ví dụ tính giác đồng như biển cả. Thực là không có bờ mé, là pháp tu hành bất hoại, khiến tự tính của chúng ta biến thành quang minh ; tâm của chúng ta tu được kiên cố như kim cang. Thân của chúng ta tu thành như kim cang bất hoại. Cho nên tại “Bát Nhã Ðường” này mà tu luyện, trừ khử hết tập khí mao bịnh, khiến trong tâm tham, sân, si, ba độc biến thành giới định huệ ba học. Làm thế nào để tiêu diệt được tham sân si? Phải dùng tâm hằng viễn ; tâm kiên cố để rèn luyện, ngày càng tiến bộ thì tự tính quang minh liền hiện tiền, như ánh sáng mặt trời chiếu xuống tuyết, liền khiến tan biến. Chúng ta ngồi thiền, tức là làm tan tuyết trong tự tính. Trong tự tính của chúng ta có tuyết tích tụ đã nhiều đời, nhiều kiếp, hiện tại dùng trí huệ Bát Nhã để làm tan biến.

Tuyết ví như vô minh phiền não của chúng ta. Nhiều đời nhiều kiếp đến nay cũng không tỉnh giác. Ðây là vô minh phiền não tích tập từ vô lượng kiếp đến nay, khiến cho chúng ta ngồi thiền thì chân đau, lưng ê. Chúng ta chân chánh nhẫn nhục, thì sẽ phá được cửa sinh tử, đạt được Kim Cang Bồ Ðề Hải.

Ðến được Kim Cang Bồ Ðề Hải rồi, liền hợp với pháp giới mà làm một. Pháp giới thì không có bờ mé. Trong Kinh Lăng Nghiêm có nói:

“Trong không sinh đại giác,
Như bọt nước trong biển”.

Hiện tại khoa học tuy nhiên phát triển và tiến bộ, nhưng không cách chi trắc lượng được hư không cứu kính rộng lớn bao nhiêu? Hư không là do một bọt nước trong biển đại giác sinh ra mà thôi. Chúng ta hiện tại phải trở về cội nguồn, cho nên xuất bản tạp chí “Kim Cang Bồ đề Hải”.

Mục đích chung của chúng ta là trở về biển đại giác. Mười phương chư Phật, Bồ Tát đều ở trong biển đại giác đợi chúng ta. Cho nên chúng ta phải dụng công, nỗ lực hướng về biển đại giác tiến tới. Năm tháng vô tình mỗi giây phút qua rồi, thì không thể nào trở lại. Các vị phải quý trọng thời gian, vì trí huệ trang nghiêm, phước đức trang nghiêm.

Chúng ta hiện tại tham thiền đả tọa, tức là phước huệ trang nghiêm. Phước huệ song tu là một loại công đức vô tướng. Ðây là công đức mà người thế tục làm không đặng. Ngồi thiền thì đắc được trí huệ mà hết thảy người thế tục không làm được. Ngồi thiền thì tự tính quang minh hiện tiền, là đắc được đại trí huệ, đại biện tài, đại thọ mạng, đại an lạc. Tóm lại cái gì cũng lớn. Nếu bạn chứng quả tức thành đại A La Hán. Nếu bạn xuất gia tức là đại Tỳ Kheo, đại Tỳ Kheo Ni. Nếu bạn là người tại gia tu hành tức là đại Ưu Bà Tắc (cận sự nam), đại Ưu Bà Di (cận sự nữ), đại Bồ Tát, thành đại quả vị Phật, đều do các bạn hôm nay tại “Kim Cang Bồ Ðề Hải Ðường” tu hành mà thành.

Tại sao lại dùng Kim Cang ví dụ thân tâm chúng ta? Vì chúng ta sinh ra đời chỉ bất quá sống được mấy mươi năm, chuyển nháy mắt liền tiêu mất. Dùng một trăm tuổi mà nói thì thiếu niên chiếm mất mười lăm năm, vì mười lăm tuổi trước niên thiếu chẳng biết gì, tuổi già thì chiếm khoảng mười lăm năm, vì tuổi tác già cả, cũng không trưng dụng. Như vậy già bỏ đi mười lăm năm, thiếu niên bỏ đi mười lăm năm, cộng lại ba mươi năm thời gian không qua, còn lại bảy mươi năm thời gian. Thời gian ngủ lại chiếm hết một nửa, chỉ còn lại ba mươi năm. Trong ba mươi năm mỗi ngày thường làm việc nhà cũng phải mất hết năm năm. Vậy chỉ còn lại ba mươi năm. Nếu chúng ta không lợi dụng thời gian ba mươi năm đến “Kim Cang Bồ Ðề Hải” tu hành, suốt ngày chỉ vì cái bụng mà bận rộn, đó không phải là lãng phí thời gian chăng?

Chúng ta vốn là ở trong Kim Cang Bồ Ðề Hải, do vô minh che đậy mà phát sinh các thứ mê hoặc, cho nên trôi nổi trong sáu nẻo, lúc thì sinh làm người, làm chư thiên, làm ngạ quỷ, làm súc sinh, làm A Tu La hoặc đọa địa ngục. Luân hồi trong sáu nẻo không ngừng, mê mà không giác, tức là luân hồi thọ khổ trong sáu nẻo. Giác mà không mê thì liễu sinh thoát tử, đắc được giải thoát.

Vì sao chúng ta không giác? Ðều vì ba độc làm hại, cũng như một số thanh niên uống thuốc mê huyễn, cho nên đầu não không sáng suốt. Chúng ta ăn độc tham sân si quá nhiều, hôm nay không sân hận, thì ngày mai cũng nổi sân hận, mai không nổi sân hận thì ngày mốt lại nổi phiền não. Ðó là kẻ mê mà không giác. Vậy làm thế nào để giác ngộ? Chỉ có tham thiền mới có thể giác ngộ, hết mê, chấm dứt sinh tử. Bản tánh của chúng ta vốn thanh tịnh, cũng như nước trong. Sinh khởi vô minh cũng giống như nước đóng thành băng. Tự tánh thanh tịnh của chúng ta, vốn không có ô nhiễm, mà là đầy đủ đại trí huệ. Nhưng một khi sinh phiền não rồi, thì bản tánh giống như băng. Thử nghĩ dùng một chén nước trong tát lên mặt người ta, thì nước không thể làm thương hại người. Nếu dùng một cục nước đá phan lên đầu người ta thì khiến cho bể đầu chảy máu, thậm chí có thể chết.

Nếu người không mê, chưởi mắng người ta thì không thể làm thương hại người. Vì sao? Vì người đó không có tâm sân hận. Chưởi mắng người là cảnh tỉnh họ, hy vọng họ sửa lỗi làm mới. Người có trí huệ chân chánh thì không thể hại người. Nếu muốn được chân chánh trí huệ thì phải chạy hương, ngồi hương (tham thiền).

“Nguyệt đáo thiên tâm xứ
Phong lai thủy diện thời
Nhất ban thanh ý vị
Liễu đắc thiểu nhân tri”.

Nguyệt đáo thiên tâm xứ: Ðây là hình dung người dụng công đạt được cảnh giới giống như mặt trăng nằm ở trên đỉnh đầu.

Phong lai thủy diện thời: Gió thổi đến mặt nước còn chưa có sóng.

Nhất ban thanh ý vị: Ý nói là cảnh rất thanh tịnh và ôn hòa.

Liễu đắc thiểu nhân tri: Nhưng rất ít người biết thưởng thức ý vị cảnh giới này. Dụng công đến chỗ không thấy tướng người, tướng ta, tướng chúng sinh, tướng thọ mạng, thì bên trong không thấy có thân tâm, bên ngoài không thấy có thế giới. Thân tâm đều không, thế giới cũng không còn tồn tại. Tu đạo phải tự mình dụng công, chẳng phải dụng công thế cho kẻ khác được. Cho nên:

“Sinh tử của ai người ấy lo
Mình ăn thì mình no”.

Dụng công thì sẽ liễu sinh thoát tử. Chấm dứt sinh tử thì nhất định thoát khỏi luân hồi.Con người thường hay so sánh với kẻ khác, đều cho mình là hơn người, thật ra thì chưa thể thấy thân tâm đều không đó là chấp trước tướng ta, người tham thiền, phải trừ khử tướng ta, không những vô tướng, mà còn phải không thấy thân tâm. Thân tâm đều không. Cho nên “Vô tâm đạo nhân”. Vô tâm đạo nhân tức là người “vô tu vô chứng”. Trong Kinh Tứ Thập Nhị Chương có nói: “Cúng dường một trăm người ác không bằng cúng cho một người thiện ; cúng dường cho một ngàn người thiện, không bằng cúng cho một người trì ngũ giới ; cúng dường một vạn người trì ngũ giới, không bằng cúng dường một người xuất gia Tỳ Kheo ; cúng dường một trăm vạn Tỳ Kheo, không bằng cúng cho một vị chứng quả Tu Ðà Hoàn ; cúng dường một vạn người sơ quả Tu Ðà Hoàn, không bằng cúng cho một vị nhị quả Tư Ðà Hàm ; cúng dường một vạn nhị quả Tư Ðà Hàm, không bằng cúng cho một vị tam quả A Na Hàm ; cúng dường một trăm vạn vạn tam quả A Na Hàm, không bằng cúng cho một vị tứ quả A La Hán ; cúng dường một ngàn vạn vạn tứ quả A La Hán, không bằng cúng dường mười phương chư Phật ; cúng dường một vạn vạn mười phương chư Phật, không bằng cúng dường cho một người vô tâm”. Phải chân chánh vô tâm mới xứng đáng thọ lãnh cúng dường này.

“Vô tâm đạo nhân” cũng là “trong chẳng thấy thân tâm, ngoài chẳng thấy cảnh giới”, đồng một thể với hư không. Muốn tu hành “Vô tâm đạo nhân”, thì trước hết phải phá ngã chấp, pháp chấp. Muốn phá ngã, pháp hai chấp chỉ có tu thiền, từ từ dụng công.

Phương pháp dụng công giống như mèo rình chuột, mèo nhẫn nại rình ở miệng hang, đợi chú chuột xuất hiện liền vồ bắt lấy, tham thiền cũng như thế. Tham thoại đầu “Niệm Phật là ai?” Chữ “ai” giống như chú chuột. Chữ “tham” tức là mèo. Lại như gà ấp trứng, hoặc như rồng giữ minh châu, thời thời khắc khắc chuyên tâm nhất chí, không khởi vọng tưởng. Cho nên:

“Một niệm không sinh toàn thể hiện,
Sáu căn hốt động bị mây che”.

Một niệm không sinh tức ngồi thiền đạt đến trong thì không thấy thân tâm, ngoài thì không thấy thế giới. Hơi thở cũng ngừng lại, nhưng không phải là chết. Bên ngoài tuy hơi thở ngừng lại, nhưng bên trong vẫn còn hơi thở. Ðược như thế thì có thể chuyển bánh xe pháp, chuyển bánh xe vô hình nhưng đừng bao giờ chấp trước cảnh giới như thế.

Những người dụng công tham thiền phải cố gắng nỗ lực. Cho nên:

“Ðầu sào trăm thước, tiến thêm một bước”.

Người không dụng công phải nắm bắt thời gian, đừng để thời gian trôi qua lãng phí. Cổ nhân có nói:

“Một chút thời gian là một tấc vàng,
Tấc vàng khó mua được chút thời gian”.

Dụng công thì đất, nước, gió, lửa đều có thể nhập định, lại có thể nhập phi phi trưởng định. Ở trong định không nên chấp trước cảnh giới, đừng sinh khởi phiền não vô minh, bằng không thì sẽ chướng ngại sự khai ngộ. Nay tôi kể một câu chuyện mượn để làm gương soi.

Trước kia có vị tu hành, muốn sinh về cõi trời Phi Phi Tưởng Xứ (tầng trời cao nhất ở cõi vô sắc giới), cho nên tu phi phi tưởng xứ định. Vị ấy tu gần bờ biển, lúc muốn nhập phi phi trưởng xứ định thì bầy cá đùa giỡn ở bờ biển làm gây tiếng động rì rào, khiến cho vị tu hành không thể nào nhập định được. Vị tu hành mở mắt nhìn thì cá lập tức bơi đi chỗ khác. Vị tu hành vẫn tiếp tục ngồi thiền, khi sắp nhập định thì cá lại bơi đến. Như thế nhiều lần khiến vị tu hành buồn bực sinh tâm sân hận. Tự nghĩ rằng: “Ta tốt nhất là biến thành con chim ưng, sẽ ăn sạch hết cá trong nước”. Ông ta sinh tâm sân hận như thế, dọa nạt cá không dám đến. Vị tu hành cuối cùng chứng nhập phi phi tưởng xứ định mà sinh lên cõi trời Phi Phi Tưởng Xứ, hưởng thọ phước trời tám vạn đại kiếp.

Vị tu hành đã khởi tâm sân hận, muốn biến thành chim ưng, ăn sạch hết cá. Ðợi khi phước trời hưởng hết thì đọa lạc vào đường súc sinh, đọa làm chim ưng, ngày ngày ăn cá. Ðợi khi Phật Thích Ca thành Phật rồi, vì ông ta mà thuyết pháp, mới thoát khỏi thân chim ưng, chuyển sinh làm người. Theo Phật tu đạo, sau chứng quả A La Hán, cho nên tu đạo không thể tùy ý sinh tâm sân hận, khởi vọng tưởng tất sẽ thọ quả báo.

Trong Kinh Lăng Nghiêm có vị Tôn Giả Nguyệt Quang Ðồng Tử. Ngài chuyên tu “Thủy định”. Quán tưởng nước mà nhập “Thủy quang định”. Thân thể của Ngài cũng biến thành nước. Có một lần Tôn Giả Nguyệt Quang Ðồng Tử, nhập thủy quang định thì vị đệ tử của Tôn Giả muốn yết kiến tôn giả. Y liền đến phòng, chỉ thấy trong phòng có một vũng nước, vị đệ tử liền lấy một hòn đá nhỏ để trên vũng nước. Tôn Giả Nguyệt Quang Ðồng Tử xuất định rồi cảm giác trong bụng khó chịu, bèn quán sát thấy trong bụng mình có một hòn đá nhỏ, mới kêu vị đệ tử, tra hỏi nguyên nhân, thì biết lúc Ngài nhập định, vị đệ tử lấy hòn đá nhỏ bỏ vào vũng nước. Liền dặn vị đệ tử, đợi ngài nhập định thì đến phòng lấy hòn đá ra. Do đó có thể thấy tu hành chỉ cần chuyên tâm nhất chí, tất sẽ thành tựu. Tu hành chuyên nhất tắc linh. Nếu có tâm kiên cố khẩn thiết, tất có thể tương ưng với pháp.

Tôi nhớ lại một câu chuyện. Lúc tôi tại Ðông Bắc Trung Quốc, có một vị đạo hữu đồng tham (bạn). Ông ta vốn là một tướng cướp. Có một lần trộm cướp của cải một nhà nọ bị đánh trọng thương cánh tay. Thọ thương hơn nửa năm cũng không lành. Lúc đó ông ta sinh tâm sám hối. Giác ngộ việc làm trước kia đều sai lầm, bèn cải ác hướng thiện, liền phát nguyện:”Nếu vết thương của tôi nội trong một tuần lễ lành lại, thì tôi sẽ đến bên mộ của cha mẹ thủ hiếu ba năm”.

Một tuần lễ sau quả nhiên vết thương lành lại. Ông ta giữ lời hứa đến bên mộ cha mẹ thủ hiếu ba năm. Vì ông ta ăn năn, sám hối, cho nên sư phụ của ông ta gọi ông ta là Vưu hiếu tử (hiếu tử nhà họ Vưu). Vưu hiếu tử lúc chưa thủ hiếu, có lạy Pháp Sư Tông Nhất làm thầy. Vị Pháp sư này rất có đức hạnh, được mọi người kính ngưỡng, lại cũng có thần thông. Vưu hiếu tử bắt đầu tập dụng công ngồi thiền, thì ma chướng hóa làm hỏa long (rồng lửa) trói chặt lưng Vưu hiếu tử và thiêu đốt ông ta vừa đỏ lại đau. Lúc ông ta bị ma quấy nhiễu, sư phụ của ông ta lập tức hàng phục được hỏa long, hỏa long chịu quy y và làm hộ pháp cho Vưu hiếu tử.

Vưu hiếu tử thủ hiếu khoảng hai năm rưỡi thì gặp nạn mưa, bị lụt lội mùa màng thất thu. Vưu hiếu tử liền phát nguyện: “Nếu nội trong ba ngày mà trời hết mưa thì tôi sẽ cắt thịt thân mình để tế trời”. Quả nhiên trời theo tâm nguyện của người, chưa đến ba ngày, trời đã ngừng mưa. Vưu hiếu tử liền cắt thịt tế trời. Dân làng và huyện quan vùng phụ cận nghe nói Vưu hiếu tử cắt thịt tế trời, bèn đua nhau đến tán thán ca ngợi không ngớt.

Lúc đó có con chim bay đến kêu “Làm phước cho nhiều, làm phước cho nhiều, càng nhiều càng tốt”. Con chim này bay quanh Vưu hiếu tử khoảng ba vòng rồi bay đi. Ðây là cảnh giới không thể nghĩ bàn.

Vưu hiếu tử thủ mộ tròn ba năm. Sau đó tham gia giảng đạo lý tại hội đạo đức, giáo hóa chúng sinh, hành Bồ Tát đạo. Vưu hiếu tử hai mươi mốt tuổi thì phát tâm vì cha mẹ thủ hiếu, đương thời tôi mới hơn mười tuổi cũng thủ hiếu tại mộ phần của mẹ.

Một ngày nọ chúng tôi vừa mới gặp mặt nhau, nhìn nhau thật lâu trong yên lặng. – Vưu hiếu tử hỏi: “Bạn là ai?”

– Tôi đáp: “Ðại khái bạn biết bạn là ai, nhưng tôi không biết tôi là ai”.

– Vưu hiếu tử lại hỏi: “Bạn từ đâu đến?”

– Tôi đáp: “Tôi từng đến chỗ đến”.

– Tôi hỏi ông ta: “Bạn đi đâu?”

– Ông ta đáp: “Không có nơi nào để đi”.

Không có chỗ đến, cũng không có chỗ đi, lại không đến không đi, cũng đến cũng đi, đến là từng đến chỗ đến, đi cũng từng đi chỗ đi. Một trong mười danh hiệu của Phật là Như Lai. Trong Kinh Kim Cang có nói:

“Như Lai chẳng từ đâu đến,

Chẳng đi về đâu, nên gọi là Như Lai”.

Tôi đọc Kinh Kim Cang, còn Vưu hiếu tử cũng nghiên cứu Kinh Kim Cang. Cho nên chúng tôi gặp nhau, hỗ tương nhìn nhau trong yên lặng, thời anh ta bèn khởi vọng tưởng. Cho nên đã mở miệng hỏi trước rằng “Tôi từ đâu đến”. Do đó “Mở miệng liền sai, phát ngôn liền trái”. Phàm có lời nói đều là không thật nghĩa, chẳng phải là pháp cứu kính. Không nói không truyền, nên quán như thế.

Trong Kinh Pháp Bảo Ðàn có một đoạn, nội dung đại ý như sau: Huệ Minh Ðại Sư nói: “Hành giả! Hành giả! Tôi vì pháp mà đến, chứ không phải vì y bát mà đến”. Tôi cảm thấy Huệ Minh Ðại Sư nói dối. Nếu ông ta chân chánh vì pháp mà đến thì đừng đụng đến y bát, lúc chưa đụng đến y bát liền nói: “Hành Giả! Hành Giả! tôi vì pháp mà đến, chẳng phải vì y mà đến”. Sao lại lúc giở y bát lên không nổi thì mới nói? Lục Tổ Ðại Sư liền từ trong lùm cây đi ra. Ðương thời Lục Tổ Ðại Sư cũng biết Huệ Minh nói dối, nhưng nghĩ ông ta có một ý niệm hồi quang phản chiếu, cũng như nhiều người quy y với tôi không khác, thường làm việc điên đảo, tôi cũng không truy cứu.

Lục Tổ Ðại Sư nói với Huệ Minh Ðại Sư khai đạo rằng: “Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, đó chính là bản lai diện mục của thượng tọa Huệ Minh”. Huệ Minh Ðại Sư nghe nói liền khai ngộ. Khai ngộ rồi nói “Ngoài lời nói và ý nghĩa trên ra, còn có ý gì bí mật nữa chăng?” Lục Tổ đáp: “Với lời ông nói tức chẳng bí mật vậy. Nếu ông phản chiếu, mật tại bên ông”. Mật vốn là ở trong tự tính, nếu nói tức chẳng phải bí mật.

Một số người trầm mê mật tông. Mật tông chú trọng trì Chú, có Chú sao lại là mật? Mật chân chính thì không âm thanh, lại không hình sắc. Không rơi vào sắc, thanh, hương, vị xúc, pháp sáu trần mới là mật. Tôi nói với bạn tức chẳng phải mật. Một số người bị mật tông mê hoặc, cho mật tông là pháp trên hết. Cho nên: “Pháp thì bình đẳng, không có cao thấp”. Pháp nào tương ứng với bạn tức là pháp diệu, không tương ứng với bạn tức chẳng phải pháp diệu. Ðừng cho rằng pháp đó không phải pháp diệu, mà là không hợp cơ với bạn mà thôi.

Căn tính của con người có chỗ không đồng, thiện ác cũng không đồng. Bạn hoan hỉ vật gì thì diệu, ngược lại thì chẳng diệu. Người thích tham thiền, thì cảm thấy thiền là diệu ; người không hoan hỉ thì cho rằng không diệu. Có người cảm thấy tham thiền là lãng phí thời giờ, vô sở kiến thiết. Có những người thấy những người đó mê mà không tỉnh, thực là do nghiệp chướng quá nặng, cầu mười phương Chư Phật gia hộ, hy vọng cho họ sớm khai ngộ, phổ độ chúng sinh, bỏ mê quay về bến giác, không còn hủy báng người ta nữa.

Do đó có thể thấy, phàm việc gì có người cảm thấy là diệu, cũng có người cảm thấy không diệu. Người phát tâm bồ đề độ chúng sinh thì cảm thấy tham thiền là diệu. Người cho rằng tham thiền là lãng phí thời giờ, tức cảm thấy tham thiền là không diệu. Cứu kính thì diệu hoặc không diệu? Diệu thì thế nào? còn không diệu thì sao? Ðây là tướng điên đảo của chúng sinh. Tướng điên đảo của chúng sinh là diệu, không điên đảo cũng diệu. Cho nên tham thiền là diệu, không tham thiền cũng diệu. Mỗi cái đều có cái diệu của nó, chỗ diệu không giống nhau.

Như Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, ngang cũng diệu mà dọc cũng diệu. Tham thiền lại càng diệu. Mỗi người có thể tự thể nghiệm sự diệu dụng, cảm thọ sở đắc. Như người uống nước, nóng lạnh tự biết. “Sinh tử của mình tự mình lo, ai ăn thì no”. Nếu muốn dứt sinh tử thì phải tự mình hạ thủ công phu một phen.

Hôm nay là ngày thứ sáu của khóa thiền. Ngày mai nếu có ai muốn tắm thì có thể tắm. Vốn là người dụng công thì không có tướng ta, cho nên tắm hay không, không cần. Người dụng công không biết mình dụng công đến giai đoạn nào! Thật ra trong tự tính đã phát hiện không ít quang minh và trí huệ Bát Nhã. Bất quá tự mình không biết mà thôi.

Tham thiền là tu định, tham thiền là pháp môn vô vi mà vô bất vi. Biểu hiện thấy sự tham thiền là vô sở tác vi. Thực tế một người tham thiền thì có một người trong pháp giới giúp cho chánh khí tăng trưởng. Nếu mỗi người đều tham thiền thì trên thế giới này sẽ không còn chiến tranh.

Tuy nhiên nói là “Ngồi lâu có thiền”, nhưng chân chính tham thiền, không những chỉ ngồi mới có thiền, mà đi, đứng, nằm, ngồi đều có thể tham thiền. Người dụng công không phân biệt rảnh hoặc bận ; thời khắc đều chiếu cứ thoại đầu “Niệm Phật là ai?”. Tham đến “hết núi cạn nước, tham đến tột cùng”. Ði đứng nằm ngồi đều có oai nghi.

“Tọa như chung” (Ngồi như đại hồng chung). Không những ngồi không giao động mà phải ngay ngắn thẳng thắng; mắt quán mũi, mũi quán miệng, miệng quán tâm, lưỡi thì uốn cong lại để ở hàm trên, có nước dãi thì nuốt vào.

“Hành như phong” (đi như gió thoảng). Chạy hương thì như gió thoảng, gió thổi thì trên không thấy trời, dưới không thấy đất, giữa không thấy có người. Vì dụng công thì, không thấy có người, không thấy có tướng. Cho nên “trên không thấy trời, dưới không thấy đất, giữa không thấy có người”. Ði chậm thì như gió mát thổi đến, như mặt hồ tĩnh lặng.

“Trạm như tùng” (đứng như cây tùng). Ðứng thì thẳng lưng giống như cây đại tùng.

“Ngọa như cung” (nằm như cây cung). Ngủ thì duỗi thẳng nghiêng bên mặt, tay phải gối dưới đầu, tay trái duỗi thẳng để trên đùi chân trái ; nằm theo tư thế cát tường.

Vĩnh Gia Ðại Sư có nói:

“Ði cũng thiền, ngồi cũng thiền,
Nói năng động tĩnh thể an nhiên,
Ngộ gặp đao nhọn thường thản nhiên,
Uống nhằm độc dược cũng nhàn nhàn”.

Ðạt Ma Sư Tổ trải qua sáu lần bị kẻ ngoại đạo hạ độc. Ngài rõ biết là độc dược cũng uống vào trong bụng. Có thể thấy rằng Ngài không thấy có tướng ta, xem sự sinh tử rất thường tình.

Người dụng công thời kinh thiên, động địa, quỷ thần sầu, ma vương cũng hoảng sợ. Chúng ta nếu có thể hai mươi mốt giờ mỗi ngày, cước đạp thật địa (chân thật tham thiền). Luôn luôn tranh thủ dụng công, tất nhiên sẽ kinh thiên động địa.

Chúng ta tu hành pháp vô vi. Trước phải từ pháp hữu vi mà dụng công, không sợ chạy hương, ngồi hương. Chạy hương là hữu vi, ngồi hương là vô vi. Cho nên nói: “Vô vi hữu vi, hữu vi vô vi, tức hữu vi, tức vô vi. Hữu vi là vô vi, vô vi cũng là hữu vi”.

Thiền thất thứ nhất đã trôi qua rồi. Hôm nay bắt đầu thất thứ hai. Pháp môn ngồi thiền phải từ chữ nhẫn mà nắm bắt. Phải nhẫn khổ, nhẫn đau, nhẫn đói, nhẫn khát. Nếu bạn thiếu sức nhẫn thì không thể ngồi thiền. Tâm như con vượn, ý như con ngựa, luôn hướng bên ngoài truy cầu, tóm lại là ngồi bất động.

Có những người ngày ngày dụng công thì toàn khởi vọng tưởng, tưởng đông tưởng tây, tưởng những việc nhân sự không có ý nghĩa gì hết. Các vị phải hồi quang phản chiếu, phản tỉnh các bạn từ đâu đến? Nếu là từ địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, ba đường ác mà đến thường có những tâm tham, tâm sân, tâm si thì lập tức trừ khử ba độc. Mục đích chủ yếu ngồi thiền là tiêu diệt ác nghiệp trong quá khứ, khôi phục trí huệ, thành tựu thiện nghiệp. Cho nên ngồi thiền phải có sức nhẫn nại, tức là không sợ khổ. Người xưa ngồi thiền, một lần ngồi mấy ngàn năm. Bây giờ tôi kể một câu chuyện dùng để tham khảo.

Vào đời Ðường, Ðại Sư Huyền Trang đi Ấn Ðộ thỉnh Kinh. Trên đường đi thấy một vị tu hành đang ngồi nhập định, chim làm tổ trên đầu ông ta, yphục đều đã rách hết. Ðại sư Huyền Trang bèn đánh thức ông ta dậy. Lão tu hành hỏi: “Ông từ đâu đến?” Ngài Huyền Trang đáp: “Tôi từ Ðường triều đến, đang đi Ấn Ðộ thỉnh Kinh, Ngài ở đây làm gì?” Lão tu hành nói: “Tôi đợi Phật Thích Ca xuất thế, giúp Phật hoằng dương Phật pháp”. Ngài Huyền Trang nói: “Sao Ngài còn đợi Phật xuất thế, Phật Thích Ca đã vào Niết Bàn hơn một ngàn năm rồi”. Lão tu hành nói: “Thật chăng? Vậy tôi sẽ đợi Phật Di Lặc ra đời”. Lão tu hành đang chuẩn bị nhập định trở lại thì Ngài Huyền Trang nói: “Tôi có việc muốn thương lượng với Ngài, đây không phải là việc riêng của tôi, tuy nhiên Phật Thích Ca đã nhập Niết Bàn, nhưng Phật pháp còn trụ thế, tôi muốn Ngài trợ giúp hoằng dương Phật pháp, tục Phật huệ mạng. Bây giờ Ngài đến Trung Hoa đợi tôi thỉnh Kinh trở về rồi cùng nhau hoằng dương Phật pháp. Ngài từ đây đi về hướng đông. Nhớ tái sinh vào nhà nào có nóc ngói bằng vàng lưu ly”.

Ngài Huyền Trang lên đường thẳng đến Ấn Ðộ thỉnh Kinh, trước khi đi thỉnh Kinh, Ngài Huyền Trang nói trước với vua Ðường Thái Tông rằng: “Chi nhánh cây tùng, hiện tại lớn lên ở hướng tây, đợi khi nào hướng về hướng đông mà phát triển thì tôi mang Kinh trở về”. Một ngày nọ Ðường Thái Tông nhìn thấy chi nhánh cây tùng hướng về phía đông phát triển, liền biết Ngài Huyền Trang sắp trở về.

Khi Ngài Huyền Trang về đến Trường An thì vua Thái Tông xuất lãnh văn võ bá quan đến cửa tây nghinh tiếp, nghi thức tổ chức rất long trọng, Ngài Huyền Trang nhìn thấy Ðường Thái Tông liền lập tức nói với vua Thái Tông: “Kính hỷ bệ hạ có thêm một vị hoàng tử”. Thái Tông nói: “Ta không có thêm thái tử, chỉ có một vị thái tử”. Ngài Huyền Trang lập tức quán sát sự việc cứu kính như thế nào? Nguyên lai Ngài kêu lão tu hành thác sinh vào nhà vua. Lão tu hành tái sinh lộn nhà, sinh vào nhà ông thừa tướng, làm con của thừa tướng. Ngài Huyền Trang đến khuyên con trai ông thừa tướng xuất gia, nhưng bị từ chối. Phải chờ Ðường Thái Tông hạ chiếu chỉ khiến cho xuất gia. Ngài Huyền Trang nói với Ðường Thái Tông: “Chỉ cần ông ta xuất gia, bất cứ yêu cầu gì cũng đều đáp ứng”. Ðường Thái Tông lập tức hạ thánh chỉ, khiến con trai ông thừa tướng xuất gia. Ông ta phụng chỉ xuất gia, liền hướng về hoàng đế yêu cầu ba điều kiện. Thứ nhất: ” Phật giáo vốn cấm uống rượu, nhưng tôi không muốn giữ giới rượu. Tôi hy vọng bất cứ đi đến đâu phải có một xe rượu bên tôi”. Hoàng đế biết trong năm giới có một giới không uống rượu, nhưng Huyền Trang Ðại Sư đã nói bất cứ điều kiện gì của ông ta yêu cầu đều phải đáp ứng. Cho nên hoàng đế hứa khả yêu cầu thứ nhất. Ðiều kiện thứ hai là: “Tôi sinh vào nhà võ tướng, tập quán ăn thịt đã quen, mỗi ngày phải có thịt mới và tươi dâng cho tôi ăn”. Vốn người xuất gia không ăn thịt, nhưng Ngài Huyền Trang đã nói rõ thỉnh hoàng thượng đáp ứng bất cứ điều kiện gì, cho nên Ðường Thái Tông đáp ứng điều kiện thứ hai. Ðiều kiện thứ ba là: “Từ khi tôi sinh ra, vốn thích gái đẹp, bất luận đi đến đâu, phải có một xe gái đẹp đi theo”. Ðường Thái Tông đáp ứng điều kiện thứ ba.

Con trai của thừa tướng xuất gia, triều đình văn võ bá quan đều hộ tống anh ta đến Trường An xuất gia ở Ðại Hưng Thiện Tự. Ngày ấy chuông trống trong chùa đánh vang lên, khi anh ta nghe đến tiếng chuông trống, tức khắc khai ngộ, mới nhớ ra mình vốn là lão tu hành vì giúp Ngài Huyền Trang hoằng dương Phật pháp mà đến, tự chứng đắc túc mạng thông rồi Ngài liền buông xả rượu, thịt, gái đẹp ba xe, cho nên Khuy Cơ Tổ Sư (pháp hiệu của Ngài) lại có biệt hiệu là “Tam Xa Tổ Sư”.

Vị Tổ Sư này có thể đọc một lần cả chục hàng chữ. Tai thì nghe cả trăm người nói một lúc. Khuy Cơ Tổ Sư giúp Ngài Huyền Trang phiên dịch các luận Pháp Tướng Tông và các Kinh điển khác.

Lão tu hành một khi ngồi mấy ngàn năm, mà chúng ta mỗi ngày chỉ bất quá ngồi hai mươi mốt giờ. Cho nên phàm sự việc gì, đừng có chấp trước, phải chịu khổ chịu đau, chịu đau một thời mới có thể đắc được khoái lạc vĩnh viễn. Các vị muốn dũng mãnh tinh tấn, nỗ lực tu hành, thì tất cả chướng ngại đều phải tiếp nhận mà giải quyết. Tôi có một phương pháp trị đau chân, lúc các vị đau chân thì có thể nói gạt chân rằng: “Tôi mới ngồi một chút mà thôi, bất quá chỉ ngồi mười lăm phút”. Ðợi bạn ngồi hai mươi mốt giờ cũng ngắn giống như mười lăm phút, chân lúc này sẽ hết đau, nếu phương pháp này linh nghiệm thì đó là diệu pháp.

Khuy Cơ Tổ Sư sinh vào nhà võ tướng, tính tình hào phóng, thân thể to lớn, biểu hiện nhìn lại có điểm thô hào. Tuy nhiên ăn chay cũng rất mập mạp, Ngài nghe nói ở núi Chung Nam có vị Ðạo Tuyên luật sư (trì giới luật rất trong sạch) tinh tấn tu hành, nghiêm trì giới luật, đức hạnh cảm động đến chư thiên, hàng ngày dâng thức ăn cúng dường. Vị luật sư này đầy đủ bốn đại oai nghi cho nên:

“Hành như phong,
Lập như tùng,
Tọa như chung,
Ngọa như cung”.

Nghĩa là:

Ði như gió thoảng,
Ðứng thẳng như cây tùng,
Ngồi thẳng như đại hồng chung,
Nằm tư thế cát tường như cung giương bắn.

Ngài ăn một bữa, trì giới thanh tịnh, chư thiên hướng về Ngài cầu phúc báo, cho nên mỗi ngày đem thức ăn đến cúng dường Ngài.

Khuy Cơ Tổ Sư nghe được tin tức này, khởi một ý niệm, hy vọng có thể thưởng thức món ăn mùi vị của chư thiên, cho nên liền đến chỗ Ngài Ðạo Tuyên Luật Sư. Quy cụ trong Phật giáo, nếu người xuất gia có cúng dường, tất nhiên phân chia cùng hưởng. Ngày đó chưa đến giờ ngọ thì, Khuy Cơ Tổ Sư đã đến núi Chung Nam. Ðến chỗ lều tranh của Ngài Ðạo Tuyên Luật Sư ở, nói rõ nguyên nhân đến. Ðạo Tuyên Luật Sư biểu thị hoan nghênh, cùng nhau phân hưởng thức ăn của chư thiên. Nhưng ngày đó cho đến tối cũng không thấy ai mang thức ăn đến cúng dường, Khuy Cơ Tổ Sư rất thất vọng trách cứ Ðạo Tuyên Luật Sư, Ðạo Tuyên Luật Sư giữ giới luật, không có vấn đề gì hết.

Tối hôm đó ở trong lều tranh của Ngài Ðạo Tuyên Luật sư, cả hai đều yên lặng. Khuy Cơ Tổ Sư không lâu liền ngủ, ngáy vang như sấm, làm Ðạo Tuyên Luật Sư khó có thể chịu đựng được. Tâm nghĩ: “Tu hành gì vậy, ngủ li bì còn ngáy như sấm, ồn ào khiến tôi không thể chuyên tâm tĩnh tọa, phải sớm biết như vậy, không lưu ở lại!” Ðạo Tuyên Luật Sư tiếp tục ngồi thiền, đột nhiên cảm thấy trên thân có chỗ ngứa, lấy tay gãi chỗ ngứa thì gãi rớt xuống hai con rệp, vì giữ giới không sát sinh, nên bắt bỏ xuống đất, lại tiếp tục ngồi thiền.

Sáng sớm ngày mai, Ðạo Tuyên Luật sư không vui vẻ, trách Khuy Cơ Tổ Sư: “Ngủ gì mà ngáy vang như sấm, tư cách tu hành một chút cũng không có, còn quấy nhiễu tôi không thể tĩnh tọa, vậy có tư cách làm luận sư chăng?” Khuy Cơ Tổ Sư đáp: “Ngài đêm qua, trên thân ngứa, gãi làm rớt hai con rệp xuống đất, tuy nhiên không có giết chúng, nhưng một con gẫy mất một chân, còn một con bị rớt xuống chết. Con bị rớt chết, xuống chỗ vua Diêm Vương kiện Thầy, nói Thầy phá giới làm rớt nó chết, tôi vì thầy mà biện bạch rằng thầy vô tâm làm lỡ chết con rệp đó”.

Ðạo Tuyên Luật Sư nghe rồi, cảm thấy thật là cảnh giới không thể nghĩ bàn. Vị Ðại Sư này ngủ ngáy như sấm, mà lại biết sự việc trên thân mình gãi rớt có hai con rệp. Khuy Cơ Tổ Sư không đợi chư thiên đem thức ăn cúng dường, Ngài rời khỏi núi Chung Nam, trở về Trường An.

Trưa ngày hôm đó, chư thiên đem thức ăn đến, Ðạo Tuyên Luật sư hỏi chư thiên: “Sao hôm qua không mang thức ăn đến?” Chư thiên lập tức quỳ xuống đáp: “Hôm qua con y chiếu thời gian mang đến cúng dường, nhưng thấy hào quang màu vàng rực rỡ chiếu sáng ngoài bốn mươi dặm, chiếu sáng đến nỗi không cách chi nhìn thấy rõ đường phía trước”, con hỏi thần thổ địa: “Ðây là duyên cớ gì?” Thổ địa nói: “Có một vị nhục thân Bồ Tát đến lều tranh của Thầy”, hào quang sáng rực, cho nên con không cách chi mang cơm đến cho thầy được, hôm nay hào quang hết rồi, con mới có thể mang thức ăn đến.

Ðạo Tuyên Luật Sư nghe rồi, sinh tâm đại sám hối, sám hối mình gặp được nhục thân Bồ Tát mà không biết, ngược lại còn trách Bồ Tát ngủ ngáy như sấm. Từ đó về sau Ðạo Tuyên Luật Sư nỗ lực tu hành, trở thành sơ Tổ Luật Sư ở núi Chung Nam, soạn cao tăng truyện lưu truyền cho tới ngày nay.

Trong các vị, ai là nhục thân Bồ Tát thì có thể ngủ, nếu không phải thì nỗ lực tu hành, không thể lãng phí thời gian. Trong thiền đường này, mọi người phải đề khởi tinh thần tham thoại đầu “niệm Phật là ai?”.

Những người tham gia trong thiền đường này phẩm lưu tham tạp (đủ hạng), có thể hỗ tương mượn quang (nương với đại chúng, nhờ sức đại chúng). Người nào thiếu quang minh thì mượn quang minh người khác chiếu một chiếu. Người có quang minh thì phóng đại quang minh, chiếu phá hết thảy đen tối. Ðen tối tức là ngu si, quang minh tức là trí huệ, người có trí huệ phải giúp đỡ người ám độn tu hành.

Thời đại mạt pháp, tâm người không như xưa. Học điều xấu thì dễ, học điều hay thì khó. Học tập Phật pháp thì trong tâm nghi hoặc, thường điên đảo thị phi. Thời đại chánh pháp thì giải thoát kiên cố, người người đều chứng quả. Thời đại tượng pháp thì thiền định kiên cố. Hiện nay là thời đại mạt pháp, là thời đại đấu tranh kiên cố. Trước thời kỳ đấu tranh kiên cố là đa văn kiên cố. Hiện tại giữa người với người đấu tranh với nhau. Thời đại mạt pháp này mà chúng ta có nhiều người học tập chánh pháp, tham thiền đả tọa, không sợ khổ, dụng công tu hành cũng là cảnh giới không thể nghĩ bàn. Cảnh giới không thể nghĩ bàn là từ trong sự thống khổ không thể nghĩ bàn mà luyện thành. Cho nên chúng ta phải đề khởi tinh thần tinh tấn tu hành, tác chiến triệt để mới mong thành công.

Thiền sư Quy Sơn Linh Hựu đời thứ 37, Ngài là sơ Tổ của tông Quy Ngưỡng, quê ở Phước Châu Trường Khê. Ngài họ Triệu, Ngài sinh ra khác với người thường. Lúc thiếu thời, đi chơi với bạn thì thích đọc Kinh, lễ Phật làm tiêu khiển, cho nên một số người gọi Ngài là “tiểu hòa thượng”.

Một ngày nọ, Ngài chơi ở trong Chùa, làm công quả, lễ Phật. Trong hư không bỗng xuất hiện một đám mây cát tường, đoan khí vây quanh không tan. Nhạc trời tấu ở trên không, có chân thân của Phật trong mây cát tường năm sắc, lúc ẩn lúc hiện, khiến nhiều người đều thấy hiện tượng kỳ lạ này,mọi người đều cho rằng đó là điềm lành.

Lúc đó có một ông già đầu tóc bạc phơ không biết từ đâu đến, bèn nói với mọi người rằng: “Ðây là mười phương chư Phật hiển Thánh, cho nên hiển hiện mây cát tường. Ðứa trẻ này thực là con Phật, tương lai nhất định khiến cho Phật giáo phóng đại quang minh”. Nói xong gẩy móng tay bốn lần rồi biến mất không để lại tông tích.

Ðứa trẻ đó đến mười lăm tuổi thì liền đến Chùa Phước Châu lạy Pháp Thường Luật Sư làm thầy. Cạo đầu xuất gia, chuyên tu khổ hạnh. Mỗi ngày siêng năng làm việc, công việc làm rất nhiều so với các chú Sa Di khác. Chịu cực, chịu khổ, không giải đãi cũng không phóng dật. Lúc hai mươi tuổi thì đến Chùa Long Hưng ở Hàng Châu thọ giới. Lúc đó Ngài theo một vị đại thiện tri thức học giới luật, sau đó đến núi Thiên Thai tu hành tại chùa Quốc Thanh.

Trên đường đi gặp Hàn Sơn Ðại Sư nói với Ngài rằng: “Gặp đầm thì dừng, gặp quy thì trụ”. Ngài nghe rồi, suy gẫm mấy câu trên. Ðến chùa Quốc Thanh, hướng về Thập Ðắc Ðại Sư thỉnh giáo mấy câu trên có ý nghĩa gì? Thập Ðắc Ðại Sư dạy Ngài từ từ dụng công tu hành, tương lai có ngày sẽ hiểu. Từ đó Ngài với Thập Ðắc Ðại Sư sớm tối ở với nhau, tham thiền thập định.

Khoảng 23 tuổi thì Ngài đến Tùng Lâm của Bách Trượng Thiền sư, Ngài quản lý chức vụ nhà bếp. Trong Chùa người nấu cơm gọi là phạn đầu (người nấu cơm). Người trách nhiệm đốt lửa gọi là hỏa đầu. Người trách nhiệm nấu trà gọi là trà đầu. Người trách nhiệm nấu nước gọi là thủy đàu, bất cứ ai công việc bận rộn Ngài đều giúp đỡ, không có tâm phân biệt.

Một ngày nọ, Bách Trượng Thiền Sư kêu Ngài xem trong lò còn lửa chăng? Ngài dùng đũa bếp bới tro trong lò liền nói: “Không còn lửa”, lúc đó Bách Trượng Thiền Sư tự mình đi bới thử xem, phát hiện một ít lửa than, liền chỉ cho Linh Hựu Thiền Sư xem: “Ðây không phải lửa chăng?” Linh Hựu Thiền Sư hốt nhiên đại ngộ.

Bách Trượng Thiền Sư lúc đó biết Linh Hựu Thiền Sư đã khai ngộ, liền bảo Ngài đến Hồ Nam Ngưỡng Sơn kiến lập đạo tràng, hoằng dương Phật pháp, truyền tông môn độ chúng sinh. Tin tức này bị thủ tòa Hoa Lâm Thiền Sư biết, tâm có ý không phục, liền đến trước tòa Bách Trượng Thiền Sư tranh giữ chức phương trượng, liền nói với Bách Trượng Thiền Sư: “Con là thủ tòa, nếu muốn phái người làm phương trượng thì phái con trước mới đúng, còn Linh Hựu Thiền Sư bất quá là một danh điển tòa mà thôi, có tư cách gì đến Ngưỡng Sơn làm phương trượng?”

Bách Trượng Thiền Sư nói với thủ tòa Hoa Lâm Thiền Sư rằng: “Nếu ngươi có thể khiến cho đại chúng đều phục thì ta phái người đi làm phương trượng”. Liền chỉ tịnh bình nói “Nếu không gọi cái tịnh bình này là tịnh bình thì gọi nó là cái gì?” Thủ tòa đáp: “Tịnh bình này không phải làm bằng cây, bất cứ thế nào cũng không gọi đó là cây”. Lúc đó Bách Trượng thiền sư quay qua hỏi Linh Hựu Thiền Sư: “Ông nói là cái gì?” Linh Hựu Thiền Sư lấy chân đá tịnh bình rớt xuống rồi quay đầu bỏ đi. Bách Trượng Thiền Sư cười và nói: “Ðệ nhất tòa thâu tức sơn tử dã”. Ðây là đạo lý gì? Phàm là người khai ngộ, hiểu hết thảy đều không, vốn đều là không, còn gọi đó là cái gì? cuối cùng thủ tòa bèn lạy Linh Hựu Thiền Sư. Sau đó Linh Hựu Thiền Sư đi thẳng đến núi Quy Sơn tạo Chùa Ðồng Khánh, khai sáng phái Quy Ngưỡng Tông.

Linh Hựu Thiền Sư từ Giang Tây đến Hồ Nam Ðại Quy Sơn, làm một cái lều tranh để ở tu. Loài thú cũng quây quần sống với nhau, hằng ngày khỉ hái trái cây mang đến cúng dường, thiền sư vì bầy khỉ mà quy y cho chúng. Do việc này mà một vị quan lớn ở Hồ Nam nghe tin, bèn phát tâm làm Chùa và nói với Ngài rằng: “Thừa tướng Phỉ Hưu là một Phật tử, tôi sẽ thỉnh mời ông ta làm Chùa cho Ngài”. Thừa tướng Phỉ Hưu nghe nói có vị cao Tăng đạo hạnh, cho nên đến Quy Sơn bái phỏng Linh Hựu Thiền Sư, liền phát tâm đem ba trăm lạng bạc để trên cỏ ngoài lều tranh rồi bỏ về.

Ba năm sau, thừa tướng Phỉ Hưu đến núi thăm hỏi Linh Hựu Thiền Sư thì, thấy thiền sư vẫn còn ở tại lều tranh cũ, liền hỏi: “Thiền sư! Tại sao vẫn chưa làm Chùa?” Sau đó phát hiện nguyên lai ba trăm lạng bạc còn nguyên bất động tại chỗ cũ. Thừa tướng Phỉ Hưu cảm động đức hạnh thiền sư Linh Hựu lập tức khởi công kiến lập Chùa Ðồng Khánh. Sau đó thừa tướng Phỉ Hưu viên tịch. Vị thừa tướng khác thay thế cũng phát tâm cúng dường ủng hộ Tam Bảo, giúp Linh Hựu Thiền Sư hoằng dương Phật pháp. Ðến đời vua Ðường Tuyên Tông khoảng năm 853 mồng 9 tháng giêng, Linh Hựu Thiền Sư hướng đại chúng cáo biệt, ngồi kiết già viên tịch hưởng thọ 83 tuổi, húy là Ðại Viên Thiền Sư, tháp hiệu là Thanh Tịnh.

Linh Hựu Thiền Sư không vì ba trăm lạng bạc mà động tâm. Ba năm sau có thể thấy định lực của Ngài hơn người, đạo đức đầy đủ lại khiến cho bầy khỉ và dã thú quy phục, cho nên:

“Ðạo cao long hổ phục,
Ðức trọng quỷ thần khâm”.

Thừa tướng Phỉ Hưu thân thế địa vị cao, chỉ dưới một người mà trên hàng vạn người, giúp vua trị lý quốc chánh, cho nên không thể buông bỏ trọng trách đi xuất gia, liền cho con là Hàn Lâm học sĩ đến Chùa Ðồng Khánh xuất gia, lạy Linh Hựu Thiền Sư làm thầy, pháp hiệu là Pháp Sư Pháp Hải. Trong Chùa giữ chức vụ gánh nước từ sáng đến tối, trong ba năm như một ngày, mồ hôi chảy nhuễ nhại vì gánh nước cho Chùa cúng dường đại chúng.

Một ngày nọ Pháp Sư Pháp Hải lén đến thiền đường nhìn xem thử, thì thấy rất nhiều người ngồi thiền, tâm nghĩ: “Tôi mỗi ngày khổ cực gánh nước, các vị ở trong thiền đường ngủ, tôi là người có học vấn mà gánh nước cho các vị, mà các vị chỉ biết ngủ”. Nghĩ rồi liền rời khỏi thiền đường bèn nói với người bạn những gì vừa nghĩ, vừa nói hết, bị Linh Hựu Thiền Sư triệu đến nói: “Ngươi sinh tâm cống cao ngã mạn, ngươi không thể ở đây được”, liền đuổi đi và cho tám đồng rưỡi tiền nói rằng: “Khi nào dùng hết tám đồng rưỡi tiền thì ngươi lưu lại chỗ đó”.

Pháp Sư Pháp Hải bèn rời khỏi Chùa Ðồng Khánh, trở về Trường An, trên đường đi khất thực để độ qua ngày, không dám tiêu tiền, từ Hồ Nam Ðại Quy Sơn đi đến Giang Tô trấn giang thì đi ngang qua trường giang tiền đò quá đắc, chỉ có tám đồng rưỡi không đủ qua đò, liền thương lượng với chủ đò, có thể lấy nửa số tiền qua đò chăng? Chủ đò nói: “Tám đồng rưỡi tiền, chỉ có thể đến hòn đảo giữa sông”. Sau khi đến đảo rồi, lên núi tìm rễ cây, cỏ lá ăn thay cơm, sống ở trong hang động.

Một ngày nọ, lúc vô ý phát hiện trong động có ba hũ vàng, Pháp Sư Pháp Hải dùng số vàng đó làm Chùa gọi là “Kim Sơn Giang Thiên Tự” (Chùa Kim Sơn), trở thành đại tùng lâm nổi tiếng trong thiền tông. Cho nên có câu “Kim Sơn thối tử, Cao Mân hương”, mọi người xa gần đều biết. Ở Chùa Kim Sơn, ngồi thiền thì ngồi kiết già, chân đau cũng không dám cử động bỏ xuống, một khi thân cử động, liền bị đánh hương bản. Cho nên quy cụ tham thiền ở Kim Sơn Giang Thiên Tự rất nghiêm khắc, cũng rất nổi danh. Chùa Cao Mân thì nổi danh về ngồi hương. Mỗi khi đốt một cây hương dài, ngồi cho đến khi nào cháy hết cây hương mới được bỏ chân xuống. Thời gian một chút cũng không thể khinh địch, rất có quy cụ. Kim Sơn Giang Thiên Tự kiến trúc rất hùng vĩ, có bảo tháp là một trong những đạo tràng quy mô của Trung Quốc. Cho nên có câu:

“Kim Sơn thấy Chùa không thấy núi,
Cháy núi thấy núi không thấy Chùa”.

Hai hòn đảo tương đối xa xa, trở thành thắng địa của Phật giáo. Kim Sơn Tự nằm ngay Trấn Giang trong sông Trường Giang, hiện tại tương vận giao tiếp với bờ phía nam, trở thành bán đảo.

Lịch đại Trung quốc đến nay, đã trải qua nhiều lần thay triều đổi đại. Kim Sơn Giang Thiên Tự bị lửa thiêu hủy, sau do chính phủ trùng tu lại, nhưng sau cũng bị lửa thiêu hủy.

Người Trung Quốc xuất gia nếu chưa ở qua Kim Sơn Giang Thiên Tự hoặc chùa Cao Mân thì không thể xưng là Thiền Sư. Nếu người đã từng ở qua hai Chùa trên, hoặc ba năm, hoặc năm năm, mới có tư cách xưng là thiền sư. Hoặc người ở được mười năm mới có thể xưng là đại Thiền sư. Một số người muốn cúng dường họ, vì những vị xuất gia đó đầy đủ oai nghi, bất cứ lúc nào, tại đạo tràng nào cũng đều là mắt quán mũi, mũi quán miệng, miệng quán tâm, không thời khắc nào mà chẳng đoan nhiên chánh tọa, chiếu cứ thoại đầu, khiến cho Phật giáo đồ rất cung kính họ.

Người chân chánh tu hành thì mới xứng đáng chủ trì Phật giáo; gười không chân chánh tu hành thì là phá hoại Phật giáo. Tin chắc rằng bất cứ nơi nào cũng đều có hai loại người này tồn tại. Người chân chánh tu hành thường từ bi, nhẫn nại đối với những người không tu hành; nhưng người không tu hành thường sinh tâm đố kỵ chướng ngại với những người chân chánh tu hành, thậm chí còn hy vọng người chân chánh tu hành sinh tâm thối chuyển.

Bên ngoài có một số người, cho rằng hội Phật giáo Trung Mỹ (tiền thân Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới) tu hành khổ hạnh quá, nhưng cũng có người cho rằng những người tu hành ở đây mới là chân tu hành. Người có trí huệ, minh biện thị phi, người không có trí huệ, không có trạch pháp nhãn thì chẳng rõ thị phi.

Rất nhiều người bên ngoài đều không tin chúng ta mỗi ngày có thể ngồi thiền hai mươi mốt tiếng, cho rằng làm không được, cho nên trước khi mở thiền thất, có một số người nói với tôi là họ sợ, tôi khuyên họ đừng sợ, thử thử xem, đến nay thiền thất đã bắt đầu, tuy nhiên có người cảm thấy khổ, cũng có người cảm thấy chịu được, lại cũng có người cảm thấy hai mươi mốt giờ không cho là dài. Cho nên mỗi người thọ dụng không giống nhau.

Người đạt được thiền duyệt vi thực (dùng sự an lạc của thiền làm thức ăn) thì không ăn vật gì cũng không cảm thấy đói. Người đắc được cảnh giới không thể nghĩ bàn thì hối tiếc sao không sớm tham thiền đả tọa. Người ngồi thiền không được chỗ diệu dụng, thì cảm thấy ngồi thiền không có ý nghĩa gì hết. Mỗi người đều có cảnh giới khác nhau, cho nên đắc được thọ dụng cũng không giống nhau. Bất cứ cảnh giới thế nào, mục đích tối hậu là khai đại trí huệ. Người đã đắc được diệu dụng phải tiếp tục dụng công, người chưa được lại tiếp tục dụng công hơn nữa, mới có thể đắc được chân chánh thọ dụng.

Chúng ta hiện nay đang kiến lập đạo tràng mới, mỗi người nếu muốn làm công đức có thể trợ giúp hoặc tham thiền hoặc làm công quả. Tham gia thiền thất là kiến lập công đức, làm công quả cũng kiến lập công đức, đây là cơ hội để cho mọi người đều đồng tâm nỗ lực đến kiến lập đạo tràng mới.

Phàm việc gì cũng không thể tốt hết hai mặt. Ví như trời mưa, người làm nông thì cảm thấy trời mưa thấm nhuần cây cỏ, hoa mầu thu hoạch tốt đẹp. Người đi đường thì cảm thấy trời mưa bùn đất lầy lội rất bất tiện, do đó suy ra sự cảm giác của mỗi người đều không giống nhau. Lúc trăng sáng tỏ, người biết thưởng thức trăng thì tâm rất vui vẻ phấn khởi, trăng sáng chiếu phá hết thảy đen tối, kẻ trộm không thể thừa lúc đen tối mà trộm cắp cho nên không cao hứng. Lại như đất mầu mỡ phì nhiêu, hoa mầu sinh trưởng tốt tươi, đồng thời cỏ cũng phát triển, nông dân phải bỏ công ra để tiêu diệt cỏ. Có nơi đến đều là đá, người cần đá, thấy đá thì mừng, vì lợi dụng đá có thể kiến trúc nhà cửa, nông dân thấy trong ruộng rẫy có đá thì không thích, vì không thể cày cấy, cảm thấy đá không lợi ích gì.

Sự việc trên thế gian cũng lại như thế, đồng một sự việc nhưng cảm giác của mỗi người đều không giống nhau. Ví như thầy giáo tích cực dạy học, học sinh lười biếng thì cảm thấy thầy giáo quá tích cực, bài vở quá nhiều, nhưng học trò chăm học thì cho rằng thầy giáo giỏi, khéo giảng dạy rất hoan nghênh. Tại sao việc gì cũng đều thấy có pháp đối đãi? Vì hiện tại là thời kỳ đấu tranh kiên cố, bất luận bạn làm gì cũng đều có người phá hoại, cho nên chúng ta không màng đến người khác phỉ báng, chỉ tích cực làm việc. Không những thời đại chúng ta như thế mà ngày xưa lúc Phật còn tại thế, cũng lại như thế.

Phật thì phước huệ đều viên mãn, là bậc Thánh nhân đầy đủ đức hạnh, mà còn có người phỉ báng, huống chi bây giờ là thời đại mạt pháp. Bên ngoài có rất nhiều người phê bình chúng ta, phỉ báng chúng ta vì chúng ta là chánh, phản ảnh họ bất chánh, cho nên khiến cho người khác đố kỵ.

Từ nay về sau nếu gặp người phê bình chúng ta thì, chúng ta phải xem họ là thiện tri thức, phải thường hồi quang phản chiếu, tiếp thọ sự phê bình. Chúng ta chỉ cần làm cho đúng, phải có con mắt chọn pháp, thì tự nhiên sẽ hiểu rõ thị phi. Cho nên:

“Thiện ngôn bất biện,
Biện ngôn bất thiện,
Trí giả bất bác,
Bác giả bất trí”.

Nghĩa rằng:

“Lời hay không cần biện luận,
Biện luận thì chẳng phải lời hay.
Kẻ trí thì chẳng lầm lẫn,
Lầm lẫn thì chẳng phải là kẻ trí”.

Chúng ta phải có “Nhược vô, nhược thật, nhược hư”, không nên tự đại, không nên tự mãn, người khác phê bình chúng ta kiêu mạn, chúng ta phải hồi quang phản chiếu, phản tỉnh một phen. Nếu thật là kiêu mạn thì phải sửa đổi.

Lục Tổ Huệ Năng nói: “Nếu người chân thật tu đạo thì không thấy lỗi thế gian”. Nếu chân chánh là người tu đạo thì thấy hết thảy chúng sinh tương lai đều có thể thành Phật, không thấy lỗi của thế gian. Ðây là lời vàng thước ngọc, nên ghi khắc vào đá. Người khác phê bình chúng ta thì chúng ta phải phản tỉnh lời phê bình là đúng hay sai? Nếu là đúng thì phải tiếp thọ sự chỉ đạo, nếu phê bình không đúng thì chúng ta phải biện rõ thị phi. Không nên với người có kiến thức, người có trí huệ nói lời lý trí ; người ngu si nói lời ngu si, chúng ta phải y chiếu những gì Phật nói, những lời chân thật áp dụng thực hành.

Bất luận người ta nói lời trí huệ hoặc lời ngu si, chúng ta phải tâm bình khí hòa kiểm thảo lại, nhìn xem mình là trí huệ hay là ngu si? Nếu là ngu si thì phải học trí huệ, nếu có trí huệ thì không thể bị kẻ ngu làm lay chuyển. Chúng ta phải có con mắt chọn pháp, biện rõ pháp đúng, pháp sai, không thể bị kẻ ngu mê hoặc. Thường có tâm khiêm cung hòa ái, xem hết thảy chúng sinh đều bình đẳng, người khác phê bình chúng ta như thế nào, hãy xem họ là thiện tri thức của chúng ta. Ðem tấm lòng phóng rộng ra, xem hết thảy chúng sinh đều là thiện tri thức, nếu quán như thế thì tự nhiên tâm an lý đắc.

Thiện tri thức có hai loại, có người thiện và có kẻ ác, chúng ta phải bắt chước người pháp thiện, làm khuôn phép. Còn kẻ ác thì phải biết sợ và luôn cảnh tỉnh chớ gần gũi. Cho nên: “Phải đạo thì tiến, trái đạo thì lùi”. Chọn lựa nếu thiện thì theo, không thiện thì tránh.

“Muốn biết kiếp trước mình làm gì,
Nhìn xem đời này mình đang hưởng thụ,
Muốn biết đời sau như thế nào,
Xem mình đời nay làm những gì”?

Chúng ta luân hồi trong sáu nẻo, thoát không khỏi luật nhân quả. Nếu muốn biết nhân quả kiếp trước như thế nào? Hãy xem hiện tại bạn đang thọ lãnh. Ví dụ đời này bạn giàu có, là do kiếp trước bạn ưa thích bố thí; đời này bạn nghèo khổ là do kiếp trước bạn không bố thí. Nếu bạn muốn biết đời sau như thế nào? Thì hãy xem hiện tại bạn đang làm những gì? Cho nên:

“Thiện có quả thiện, ác có quả ác,
Chẳng phải không quả, thời khắc chưa đến”.

Xã hội hiện nay, có người giàu sang, cũng có người nghèo khổ, rất là thù đặc. Vì sao? Ðều do luật nhân quả chiêu cảm. Bố thí thì giàu sang, san tham thì bần cùng, đều do trồng nhân gì được quả đó, tơ hào cũng không sai được. Nhân quả là định luật vĩnh viễn không thay đổi. Mọi người đều biết đạo lý trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu, đây là nói rõ trồng nhân gì thì kết quả đó. Tôi nhớ lại một câu chuyện, nói về chân lý nhân quả, đại ý như sau:

Vào thời Hậu Hán, tại Trung Ðông có một quốc gia gọi là An Tức. Có vị Ðại Ðức tên là An Thanh, cũng gọi là An Thế Cao. Thiên tính thông minh khác lạ hơn người, học hành rất giỏi, tinh thông y học, chiêm tinh, bói quẻ, xem tướng, thậm chí còn nghe được tiếng cầm thú nói. Ngài kiếp trước là thái tử nước An Tức. Nhà vua qua đời, Ngài kế thừa vương vị, nhưng Ngài bỏ ngôi vua, nhường lại cho người chú ruột, xuất gia làm Tỳ Kheo. Ngài có một người bạn đồng tu, thiên chất tuy thông minh, nhưng tâm sân hận quá nặng. Vị Tỳ Kheo này lúc trước chưa xuất gia, rất hoan hỉ bố thí, cứu giúp những người nghèo khổ, nhưng thường sinh nóng giận, xuất gia rồi cũng còn như thế, thậm chí có người cúng dường cho Ngài mà không xưng tên của Ngài, Ngài liền phát đại lôi đình.

Một ngày nọ An Thế Cao nói với người bạn đồng tu: “Sư đệ! Thầy thông minh tài trí như tôi không khác, nhưng thầy quá sân hận, tương lai sợ thầy có thể đọa lạc. Khi tôi chứng quả đắc đạo, tôi sẽ độ thầy”. Nói xong rồi, thời gian sau An Thế Cao đến Trung Quốc, đến tỉnh Quảng Châu để trả cho xong ân oán tiền kiếp, vì Ngài kiếp trước tu hành nghiêm trì giới luật, cho nên có túc mạng thông.

Ðương thời cảm thấy bất an, Ngài từ An Tức đến Quảng Châu, gặp một người thanh niên, người này nhìn thấy An Thế Cao, không hỏi gì hết, liền muốn giết An Thế Cao. An Thế Cao hỏi: “Anh có biết vì sao anh muốn giết tôi chăng?” Người thanh niên đáp: “Tôi cũng không biết vì sao, chỉ là tôi thấy Thầy thì không vui, nhất định phải muốn giết Thầy”. An Thế Cao liền đáp: “Vì trong kiếp trước, tôi đã giết anh, cho nên đời này anh muốn giết tôi, tôi đến đây là vì trả cho xong món nợ kiếp trước”. Nói xong không sợ sệt gì hết bèn đưa đầu ra, để cho vị thanh nhiên chém đầu.

Thần thức An Thế Cao lại thác sinh vào Vương quốc An Tức, lại làm thái tử tức là tiền thân An Thế Cao. Khoảng 15-16 tuổi lại xuất gia làm Tỳ Kheo, sau đó đến Trung Quốc dịch Kinh hoằng pháp, muốn độ người bạn đồng tu là vị thanh niên nói ở trên. Lúc đó vào thời Ðông Hán, vua Linh Ðế, Ngài đến Quảng Châu tìm vị thanh niên đó, hỏi: “Anh còn nhớ mấy chục năm về trước, đã giết chết một vị Sa Môn chăng?” Người đó nói “Tôi nhớ, vô duyên vô cớ tôi đã giết chết một vị Sa Môn, có phải Ngài muốn vì ông ta mà báo thù chăng?” An Thế Cao nói: “Tiền thân của tôi chính là vị Sa Môn đó, hiện tại tôi tìm anh vì mục đích không phải là báo thù, mà là muốn nói một chuyện nhân quả với anh. Nếu tôi giết anh nữa, thì anh lại giết tôi nữa, thì ân oán không khi nào dứt được. Tôi đến đây để độ anh, không phải đến để giết anh. Bây giờ chúng ta cùng nhau đến Giang Tây Ðộng Ðình Hồ, để độ bạn đồng tu của tôi trong kiếp trước”. Người đó nghĩ: “Sự việc cách đã nhiều năm, việc này không ai biết rõ, nếu không phải vị Sa Môn đó tái sinh, sao lại nói đúng việc đó?”

Sau đó, người đó và An Thế Cao cùng đi độ người bạn đồng tu. Những người cùng đi với nhau hơn mười người, ngồi thuyền đến Lư Sơn gần Ðộng Ðình Hồ. Bên ven hồ có một ngôi miếu, đồn rằng miếu nầy rất linh, người muốn ngồi đò qua hồ thì trước phải đến miếu thắp hương tế thần, mặt hồ mới sóng yên gió lặng, đến bờ bình an, bằng không thì sóng gió ba đào, làm lật thuyền chết người.

Có một lần, một người thương nhân từ trong miếu cầm ra một cây trúc, chưa được Thần miếu hứa khả, lên thuyền đi ra giữa hồ hốt nhiên bị chìm thuyền, cây trúc đó tự động trở lại trong miếu, chuyện này truyền ra rồi dân làng gần đó càng tin Thần miếu, nhiều người đều đi cúng tế một phen, để gia hộ cho được bình an. Những người đi với An Thế Cao đến nơi cũng vào miếu lễ tạ. Thần miếu bèn nói: “Có vị Sa Môn cùng đi với quý vị, mời Ngài vào gặp tôi”. Những người đó nghĩ, vị Thần này thật có thần thông, nếu không, làm sao biết có vị Sa Môn cùng đi với chúng ta, sau đó nói lại với An Thế Cao: “Vị Thần đó muốn gặp Ngài”. An Thế Cao nói: “Mục đích tôi đến đây là để độ vị Thần đó”. An Thế Cao vào trong miếu liền nói với vị Thần: “Bạn đồng tu! Ðến hôm nay bạn còn tâm sân hận quá nặng, có người cung kính bạn thì bạn hoan hỉ, nếu không cung kính bạn thì bạn liền lật thuyền làm cho chìm”. Sau đó An Thế Cao vì thần miếu thuyết pháp, độ được giải thoát.

Lúc đó Thần miếu ngập ngừng nói: “Tôi hiện tại cũng không biết làm thế nào mới đúng, hiện nay tôi đọa lạc làm thần, tuy nhiên quản lý người địa phương một ngàn dặm, nhưng kiếp này tôi tạo nhiều tội nghiệp, đời sau nhất định đọa địa ngục”. An Thế Cao an ủi Thần miếu, nói: “Ðừng buồn rầu, tôi đến đây để cứu bạn, bây giờ bạn hãy hiện nguyên hình”. Thần miếu nói: “Nếu hiện nguyên hình xấu xí, sợ có thể làm cho người sợ hãi mà chết”. An Thế Cao cứ muốn hiện nguyên hình, cuối cùng Thần miếu hiện ra một cái đầu mãng xà khổng lồ. An Thế Cao vì Thần miếu tụng Kinh trì Chú, mãng xà cảm động chảy nước mắt nói: “Thọ mạng của tôi đã hết, nếu chết ở đây, hiển lộ thân hình xấu ác, làm cho người ta sợ, tôi sẽ chết tại Sơn Tây trong một cái đầm lớn”. An Thế Cao đã hoàn thành mục đích, đã độ bạn đồng tu trong tiền kiếp được vãng sinh.

Một ngày nọ, có một vị thanh niên, đến trên thuyền hướng về An Thế Cao đảnh lễ, An Thế Cao vì anh ta thuyết pháp, thuyết pháp rồi, không thấy vị thanh niên nữa, An Thế Cao nói với những người trên thuyền: “Vị thanh niên đó là Thần miếu xưa kia, hôm nay đến để cảm tạ”. Từ đó về sau miếu không còn linh nữa. Tại hướng tây núi Lư Sơn có một cái đầm, trong đầm quả nhiên có xác của đại mãng xà, ngày sau địa phương đó gọi là xà thôn. Việc An Thế Cao độ Thần miếu lưu truyền về sau khiến cho rất nhiều người tin Phật.

Một ngày nọ, An Thế Cao nói với vị thanh niên trước kia giết mình rằng: “Tôi muốn đến Hội Kê, cũng là để trả ân oán tiền kiếp”. Trước khi đi thời đem một cái thùng đã đóng kín giao lại cho vị thanh niên đó nói: “Bốn năm sau, mới được mở thùng ra, nên nhớ! nên nhớ “!

An Thế Cao đến chợ Hội Kê, thấy hai người đánh lộn, Ngài liền đến chỗ hai người đó, có một người lấy thanh sắt đánh lên đầu Ngài An Thế Cao bể đầu, chảy máu rồi chết. Vị thanh niên đó biết lời tiên đoán của An Thế Cao, sẽ phát sinh việc như thế liền đến Hội Kê thu liệm thi thể, làm hoàn tất rồi trở về Quảng Châu. Nghĩ đến cái thùng đóng kín bèn mở ra xem chỉ có hai câu rằng:

“Người tôn kính ta là Trần Huệ,
Người hộ ta là Tăng Huệ”.

Về sau quả nhiên có Trần Huệ, rất sùng bái đức hạnh của Ngài An Thế Cao, lại có một vị xuất gia gọi là Tăng Huệ, cực lực hoằng dương Kinh điển của Ngài An Thế Cao dịch. Ước khoảng trên ba mươi bộ, phần nhiều thuộc Kinh điển tiểu thừa. An Thế Cao là một vị cao Tăng cũng phải trả ân oán tiền kiếp, do đó có thể biết nhân quả trong Phật giáo, tơ hào cũng không sai. An Thế Cao rất chí hiếu với cha mẹ, nước An Tức đều biết Ngài là một người rất hiếu thảo, rất nhiều người từ nước An Tức sang buôn bán bên Trung Quốc đều tôn An Thế Cao là An hầu.

Trong khóa thiền, nếu tôi giảng triết lý cao quá sợ một số người không hiểu, nếu giảng quá cạn, các vị cảm thấy không có ý nghĩa, cho nên mới giảng sự tích Ðại Ðức, Cao Tăng, làm phương châm cho người hậu học.