KINH THỦ LĂNG NGHIÊM

DỊCH ÂM – DIỄN NGHĨA – YẾU GIẢI

Hán dịch: Bát Thích Mật Đế
Việt dịch: Hòa Thượng Thiền Sư Thích Từ Quang

 

QUYỂN 2

1. Nhĩ thời A-Nan cập chư đại-chúng văn Phật thị hối, thân tâm thái nhiên, niệm vô thỉ lai, thất khước bổn-tâm, vọng nhận duyên li an, phân-biệt ảnh sự, kim-nhựt, khai ngộ, như thất nhũ nhi, hốt ngộ từ-mẫu, hiệp-chưởng lễ Phật, nguyện văn Như-Lai, hiển xuất thăn tâm, chơn-vọng hư-thiệt, hiện tiền sanh-diệt, dữ bâ’t sanh- diột, nhị phát minh tánh.

2. Thời Ba-Tư-Nặc vương, khởi lập bạch Phật:

– Ngã tích vị thừa, chư Phật hối sắc, kiến Ca-chiên-diên, Tỳ-la chi tử, hàm ngôn thử thân, tử hậu đoạn diệt, danh vi Niết-bàn, ngã tuy trị Phật, kiêm du hồ nghi, vân hà phát huy, chứng tri thử tâm, hai sanh-diệt địa kim thử đại-chúng, chư hữu-lậu giả, hàm gia lạc.

Phật cáo:

Đại-vương! Nhữ thân hiện tại, kiêm phục vấn nhữ, nhữ thử nhục-thân, vi đồng kim-cang, thường-trụ bất hủ, vi phục biến-hoại?

Thế-Tôn! Ngã kim thử thân, chung tùng biến-diệt.

Phật ngôn:

Đại-vương! Nhữ vị tằng diệt, vân hà tri diệt?

Thế-Tôn! Ngã thự vô-thường, biến-hoại chi thân, tuy vị tằng dn. i, ngã quan hiện tiền, niệm niệm thiên tạ, tân tân bất trụ, như In >a Ihành khôi, tiệm tiệm tiêu vẫn, vẫn vong bất tức, quyết tri thử Ihun, dương tùng diệt tận.

Phật ngôn:

Như thị Đại-vương! nhữ kim sanh linh, dĩ tùng suy lão, nhan mao hit như, đồng tử chi thời?

Thế-Tôn! Ngã tích hài-nhũ phu tấu nhuân trạch, niên chí Iim’iii)’ Ihành, huyết khí sung-mãn, nhi kiêm tồi linh, bức ư suy chỉ, hình sắc khô tụy, tinh thần hôn muội, phát bạch diện sô, đải tương bất cửu, như hà kiến tỷ, sung-thạnh chi thời.

Phật ngôn:

-Đại-vương! nhữ chi hình dung, ưng bất đốn hủ.

Vương ngôn:

-Thế-Tôn! Biến hóa mật di, ngã thành bất giác, hàng thử thiên lưu, tiệm chí ư thữ. Hà dĩ cô”? – Ngã niên nhị thập, tuy hiệu niên thiểu, nhan mạo dĩ lão, sơ thập tuế thời, tam thập chi niên, hựu suy nhị thập, vu kiêm lục thập hựu quá vu nhị quan ngũ thập thời, uyễn nhiên cường tráng.

-Thế-Tôn! Ngã kiến mật di, tuy thử tố lạc kỳ gian lưu dị, thã hạn thập niên, nhược phục lịnh ngã, vi tế tư duy, kỳ biến ninh duy, nhứt kỷ, nhị kỷ, thiệt vi niên biến, khởi duy niên biến, diệt kiêm nguyệt hóa, hà trực nguyệt hóa, kiêm hựu nhựt thiên; trầm-tư đề quan, sát-na sát na, niệm niệm chi gian, bất đắc đình trụ, cố tri ngã thân, chung tùng biến diệt.

4. Phật cáo:

-Đại-vương! Nhữ kiến biến hóa, thiên cải bất đình, ngộ tri nhữ diệt, diệt ư diệt thời, nhữ tri thân trung, hữu bất diệt da?

Ba-Tư-Nặc vương, hiệp-chưởng bạch Phật:

-Ngã thiệt bất tri.

Phật ngôn:

-Ngã kim thị nhữ, bất sanh diệt tánh. Đại-vương! nhữ niên kỷ thời, kiến Hằng-hà thủy?

Vương ngôn:

-Ngã sanh tam tuế, từ mẫu huề ngã, yết Kỳ-bà-thiên, kinh quá thử lưu, nhĩ thời tức tri, thị Hằng-hà thủy?

Phật ngôn:

-Đại-vương! Như nhữ sở thuyết, nhị thập chi thời, suy ư thập tuế, nải chí lục thập nhựt nguyệt tuế thời, niệm niệm thiên biến, tắc nhữ tam tuế, kiến thử hà thời, chí niên thập tam, kỳ thủy vân hà?

Vương ngôn:

-Như tam tuế thời, uyễn nhiên vô dị, nải chí vô kiêm, niên lục thập nhị, diệt vô hữu dị.

Phật ngôn:

-Nhữ kim tự thương, phát bạch diện sô, kỳ diện tất định, sô ư đồng niên, tắc nhữ kiêm thời, quan thử Hằng-hà, dữ tích đồng thời, quan hà chi kiến, hữu đồng mạo phủ?

Vương ngôn:

-Phất dã Thế-Tôn!

5. Phật ngôn:

-Đại-vương! Nhữ diện tuy sô, nhi thử kiến tinh, tánh vị tằng sứu, sứu giả vi biến, bất sứu phi biến, biến giả thọ diệt bỉ bất biến giả, nguyên vô sanh diệt, vân hà ư trung, thọ nhữ sanh tử, nhi du dẩn bỉ, Mạc-dà-lê đẳng, đô ngôn thử thân, tử hậu toàn diệt.

6. Vương văn thị ngôn, tín tri thân hậu, xã sanh thú sanh, dữ chư đại chúng dõng dược hoan-hỉ, đắc VỊ-tằng-hữu.

7. A-Nan tức tùng tòa khởi, lễ Phật hiệp-chưởng, trường quỳ bạch Phật:

-Thế-Tôn! Nhược thử kiến văn, tất bất sanh-diệt, vân hà Thế- Tôn, danh ngã đẳng bối, di thất chơn-tánh, điên-đảo hành sự? nguyện hưng tư-bi, tẩy ngã trần-cấu.

8.Tức thời Như-Lai, thùy kim sắc-tý, luân thủ hạ chỉ thị A-Nan ngôn:

-Nhữ kim kiến ngã, Mẩu-đà-la thủ, vi chánh vi đảo?

A-Nan ngôn:

-Thế-gian chúng-sanh, dĩ thử vi đảo, nhi ngã bất tri, tùy chánh tùy đảo?

Phật cáo A-Nan:

-Nhược thế-gian nhân, dĩ thử vi đảo, tức thế-gian nhân tương hà vi chánh?

A-Nan ngôn:

-Như-Lai thụ tý, Đâu-la-miên thủ, thượng chỉ hư không, tắc danh vi chánh.

Phật tức thụ tý, cáo A-Nan ngôn:

-Nhược thử điên-đảo, thủ vĩ tương hoán, chư thế-gian nhân, nhứt bội chiêm thị Tắc tri nhữ thân, dĩ-chư Như-Lai, thanh-tịnh Pháp thân, tỷ loại phát minh Như-Lai chi thân, danh chánh biến tri, nhữ đẳng chi thân, hiệu tánh điên-đảo, tùy nhữ đề quan, nhữ thân Phật thân, xưng điên đảo giả, danh tự hà xứ, hiện vi điên- đảo?

9. Ư thời A-Nan dữ chu đại-chúng, trừng manh chiêm Phật, mục tình bất thuấn, bất tri thân tâm, điên-đảo sở tại.

10. Phật hưng từ-bi, ai-mẫn A-Nan, cập chư đại-chúng, phát hải triều âm, biến cáo đồng-hội: Chư thiện-nam tử! Ngã thường thuyết ngôn, sắc tâm chư duyên, cập tâm sở sử, chư sở duyên pháp duy tâm sở hiện, nhữ thân nhữ tâm, giai thị diệu minh, chơn tinh diệu- tâm, trung sở hiện vật, vân hà nhữ đẳng, di thất bổn-diệu, viên diệu minh tâm, bửu minh diệu-tánh, nhận ngộ trung mê, hối muội vi không, không hối ám trung, kiết ám vi sắc, sắc tạp vọng-tưởng, tưởng tướng vi thân, tụ duyên nội diêu, thú ngoại bôn dật, hôn nhiểu nhiễu tướng, dĩ vi tâm tánh, nhứt mê vi tâm, quyết định hoặc vi, sắc thân chi nội, bất tri sắc-thân, ngoại kỵ sơn-hà, hư- không đại-địa, hàm thị diệu-minh chơn-tâm trung vật. Thí như trừng thanh, bá thiên đại-hải, khí chi duy nhận, nhứt phù âu thể, mục vi toàn triều, cùng tận doanh bột, nhữ đẳng tức thị, mê trung bội nhân, như ngã thùy thủ, đẳng vô sai-biệt, Như-Lai thuyết vi, khả liên mẫn giả.

11. A-Nan thừa Phật, bi cứu thâm hối thùy khấp xoa thủ, nhi bạch Phật ngôn:

-Ngã tuy thừa Phật, như thị diệu-tâm, ngộ diệu minh tâm, nguyên sở viên mãn, thường-trụ tâm-địa, nhi ngã ngộ Phật, hiện thuyết pháp-âm, hiện dĩ duyên tâm, doản sở chiêm ngưỡng, đồ hoạch thử tâm, vị cảm nhận vi, bổn nguyên tâm-địa, nguyện Phật ai-mẫn, tuyên thị viên-âm, bạt ngã nghi căn, qui Vô-Thượng đạo.

12. Phật cáo A-Nan:

-Nhữ đẳng thượng dĩ, duyên tâm thính pháp, thử pháp diệc duyên, phi đắc pháp tánh, như nhân dĩ thủ, chỉ nguyệt thị nhân, bỉ nhân nhân chỉ, đương ưng khán nguyệt, nhược phục quan chỉ, dĩ vi nguyệt thể, thử nhân khởi duy, vong thất nguyệt luân, diệc vong kỳ chỉ.

Hà dĩ cô”? Dĩ sở phiêu chỉ, vi minh nguyệt cố, khởi duy vong chỉ, diệc phục bất thức, minh chi dữ ám. Hà dĩ cố? – Tức dĩ thể, vi nguyệt minh-tánh, minh ám nhị tánh, vô sở liễu cố; nhữ diệc như thị.

13. Nhược dị phân-biệt, ngã thuyết-pháp-âm, vi nhữ tâm giả, thử tâm tự ưng, ly phân-biệt âm, hữu phân-biệt tánh? Thí như hữu khách, ký túc lữ đình, tạm chỉ tiện khứ, chung bất thường trú, nhi chưởng đình nhân đô vô sở khứ, danh vi đình chủ, thử diệc như thị: nhược chơn nhữ tâm, tắc vô sở khứ, vân hà ly thinh, vô phân-biệt tâm, phân-biệt ngã dung, ly chư sắc-tướng, vô phân-biệt tánh, như thị nải chí, phân biệt đô vô, phi sắc phi không, câu xá-ly đẳng, muội vi minh đế, ly chú pháp duyên, vô phân-biệt tánh, tắc nhữ tâm tánh, các hữu sở hoàn, vân hà vi chủ?

14. A-Nan ngôn:

-Nhược ngã tâm tánh, các hữu sở hoàn, tắc Như-Lai thuyết diệu-minh nguyên-tâm, vân hà vô hoàn? Duy thùy ai mẫn, vị ngã tuyên-thuyết.

15. Phật cáo A-Nan:

-Thả nhữ kiến ngã, kiến-tinh-minh-nguyên, thử kiến tuy phi, diệu-tinh minh-tâm, như đệ nhị nguyệt, phi thị nguyệt ảnh. Nhữ ưng đề thính, kim đương thị nhử, vô sở hoàn địa.

A-Nan! Thử đại giảng-đường, động khai đông phương, nhựt- luân thăng thiên, tắc hữu minh-diệu, trung dạ hắc nguyệt, vân vu hôi minh, tắc phục hôn ám, hộ dũ chi khích, tắc phục kiến thông, tường vũ chi gian, tắc phục quan ủng, phân-biệt chi xứ, tắc phục kiến duyên, ngoan hư chi trung, biến thị không-tánh, uất bột chi tượng, tắc hư hôn-trầm, trừng tể liễm phần, hựu quan thanh-tịnh.

A-Nan! Nhữ hàm khán thữ, chư biến hóa tướng, ngã kiêm các hoàn, bổn sở nhân xứ Vân hà bổn-nhân? A-Nan! Thử chư biến-hóa, minh hoàn nhựt- luân. Hà dĩ cố? – vô nhựt bất minh, minh nhân thuộc nhựt, thị có hoàn nhựt. Ám hoàn hắc nguyệt, thông hoàn hộ dũ, ủng hoàn tường vũ, duyên hoàn phân-biệt, ngoan-hư hoàn không, uất bột hoàn trần, thanh-minh hoàn tế, tắc chưthế-gian, nhứt thiết sở hữu, bất xuất tư loại.

16. Nhữ kiến bát chưởng, kiến tinh minh-tánh, đương dục thùy hoàn? – Hà dĩ cố? – Nhược hoàn ưminh, tắc bất minh thời, vô phục kiến ám, tuy minh ám đằng, chủng chủng sai biệt, kiến vô sai biệt; chư khả hoàn giả, tự nhiên phi nhữ, bất nhữ hoàn giả, phi nhữ nhi thùy?

Tắc tri nhữ tâm, bổn diệu minh tịnh, nhữ tự mê muộn, tán bổn thọ luân, ư sanh tử trung, thường bị phiêu nịch. Thị cố Như-Lai danh khả lân mẫn.

17. A-Nan ngôn:

-Ngã tuy thức thử, kiến tán vô hoàn, vân hà đắc tri thị ngã chơn-tánh?

18. Phật cáo A-Nan:

-Ngô kim vân nhữ, kim nhữ vị đắc, vô lậu thanh-tịnh, thừa Phật thần lực, kiến ư Sơ-Thiền, đắc vô chướng ngại, nhi A-Na- Luật, kiến Diêm-Phù-Đề, như quan chưởng trung A-ma-la quả, chư Bồ Tát đẳng, kiến bá thiên giới, thập phương Như-Lai cúng tận vi-trần, thanh-tịnh quốc độ, vô sở bất chúc, chúng sanh động thị, bất quả phân thốn.

19. A-Nan! Thả ngô dữ nhữ, quan tứ Thiên-vương, sở trụ cung điện, trung gian biến lãm, thủy lục không hành, tuy hữu hôn minh, chủng chủng hình-tượng, vô phi tiền-trần, phân biệt lưu ngại, nhữ ưng ư thử, phân-biệt tự tha kiêm ngô tương nhữ, trạch ư kiến trung, thùy thị ngã thể, thùy vi vật tượng?

20. A-Nan! Cực nhữ kiến nguyên, tùng nhựt nguyệt cung, thị vật phi nhữ, chí thức kim-sơn, châu-biến đế quan tuy chủng chủng quang, diệc vật phi nhữ, tiệm tiệm cách quan, vân đằng điểu phi, phong động trần khởi, thọ mộc sơn-xuyên, thảo giới nhân súc, hàm vật phi nhữ.

21. A-Nan! Thị chư cận viễn, chư hữu vật tánh, tuy phục sai thù, đồng nhữ kiến tinh, thanh-tịnh sở chúc, tắc chư vật loại, tự hữu sai-biệt, kiến tánh vô-thù, thử tinh diệu-minh, thành nhữ kiến tánh.

22. Nhược kiến thị vật, tắc nhữ diệc khả, kiến ngô chi kiến. Nhược đồng kiến giả, danh vi kiến ngô, ngô bất kiến thời, hà bất kiến ngô, bất kiến chi xứ. Nhược kiến, bất kiến, tự nhiên phi bỉ, bất kiến chi tướng. Nhược bất kiến ngô, bất kiến chi địa, tự nhiên phi vật, vân hà phi nhữ?

23. Hựu tắc nhứ kim kiến vật chi thời, nhữ ký kiến vật, vật diệc kiến nhữ, thể tánh phân tạp, tắc nhữ dữ ngã, tinh chư thế-gian bất thành an lập.

A-Nan! Nhược nhữ kiến thời, thị nhữ phi ngã, kiến-tánh châu- biến, phi nhữ nhi thùy? Vân hà tự nghi, nhữ chi chơn-tánh, tánh nhữ bất chơn, thủ ngã cầu thiệt?

24. A-Nan bạch Phật ngôn:

-Thế-Tôn! nhược thữ kiến tánh, tất ngã phi dư, ngã dữ Như- Lai, quan Tứ-thiên-vương, thắng tàng bữu-điện, cư nhựt-nguyệt cung, thử kiến châu-viên, biến Tà-bà quốc, thối qui tịnh-xá, kỳ kiến già-lam, thanh-tâm hộ đường, dãn chiêm thiềm phủ.

Thế-Tôn! Thử kiến như thị, kỳ thể bổn-lai, châu-biến nhứt giới, kim tại thất trung, duy mãn nhứt thất, vi phục thử kiến, súc đại vi tiểu, vi đương tường vũ, giáp linh đoan tuyệt. Ngã kiêm bất tri, tư nghĩa sở-tại, nguyện thùy hoằng từ, vị ngã phu diễn.

25. Phật cáo A-Nan:

-Nhứt thiết thế-gian, đại tiểu nội ngoại, chư sở sự nghiệp, các thuộc tiền trần, bất ưng thuyết ngôn, kiến hữu thư súc. Thí như phương khí, trung kiến phương không, ngô phục vấn nhữ, thử phương khí trung, sở kiến phương không, vị phục định phương, vi bất định phương?

Nhược định phương giả, biệt an viên khí, không ưng bất viên. Nhược bất định giả, tại phương khí trung, ưng vô phương không, nhữ ngôn bất tri, tư nghĩa sở-tại, nghĩa tánh như thị, vân hà vi tại? A-Nan! Nhược phục dục linh, nhập vô phương viên, dãn trừ khí phương, không thể vô phương, bất ưng thuyết ngôn, cánh trừ hư-không, phương tướng sở tại.

26. Nhược như nhữ vấn, nhập thất chi thời, súc kiến lịnh tiểu, ngưỡng quan nhựt thời, nhữ khởi vãng kiến, tề ư nhựt diện? Nhược trúc tường vũ, năng giáp kiến đoạn, xuyên vi tiểu đậu, ninh vô tục tích, thi nghĩa bất nhiên, nhất-thiết chúng-sanh, tùng vô thỉ lai, mê kỷ vi vật, thật ư bổn tâm, vi vật sở chuyển, cố’ ư thị trung, quan đại quan tiểu. Nhược năng chuyển vật, tắc đồng Như-Lai, thân tâm viên-minh, bất động đạo-tràng ư nhứt mao đoan, biến năng hàm thọ thập phương quốc-độ.

27. A-Nan bạch Phật ngôn:

-Thế-Tôn! Nhược thử kiến tinh, tất ngã diệu-tánh, kiêm thử diệu-tánh, hiện-tại ngã tiền, kiến tất ngã chơn, ngã kiêm thân- tâm, phục thị hà vật, nhi kiêm thân tâm, phân biệt hữu thiệt, bỉ kiến vô biệt, phân biện ngã thân, nhược thiệt ngã tâm, lịnh ngã kiêm kiến, kiến tánh thiệt ngã, nhi thân phi ngã, hà thù Như-Lai, tiên sở nan ngôn, vật năng kiến ngả, duy thùy đại từ, khai phát vị ngộ.

28. Phật cáo A-Nan:

-Kim nhữ sở ngôn kiến tại nhữ tiền, thị nghĩa phi thiệt; nhược thiệt nhữ tiền, nhữ thiệt kiến giả, tắc thữ kiến tinh, ký hữu phương sở, phi vô chỉ thị. Thả kim dữ nhữ, tọa Kỳ-đà lâm, biến quan lâm cừ, cập dữ điện đường, thượng chí nhựt nguyệt, tiền đối hằng-hà. Nhữ kim ư ngã. Sư-tử tòa tiền, cử thủ chỉ trần, thị chủng chủng tướng âm giả thị lâm mình giả thị nhựt, ngại giả thị bích, thông giả thị thông, như thị nải chí, thảo thọ tiêm hào, đại tiểu tuy thù, đản khả hữu hình, vô bất chỉ trước. Nhược tất kỳ kiến hiện tại nhữ tiền, nhữ ưng dĩ thủ, xác thiệt chỉ trần, hà giả thị kiến? A-Nan đương tri, nhược không thị kiến, ký dĩ thành kiến, hà giả thị không?

Nhược vật thị kiến, ký dĩ thị kiến, hà giả vi vật?

Nhử khả vi tế, phi bác vạn tưựng chiếc xuất tinh minh, tịnh diệu kiến nguyên chỉ trần thị ngã, đồng bỉ chư vật, phân-minh vô hoặc.

29. A-Nan ngôn:

-Ngã kim ư thử, trùng các giảng-đường, viễn kỵ Hằng-hà thượng quan nhựt nguyệt, cữ thủ sở chỉ, túng mục sở quan, chỉ giai thị vật, vô thị kiến giả.

Thế-Tôn! Như Phật sở thuyết, huống ngã hữu lậu, sơ học Thinh- văn nãi chí Bồ-Tát, diệc bất năng ư, vạn vật tượng tiền, phẩu xuất tinh kiến, ly nhứt thiết vật, biệt hữu tự-tánh.

Phật ngôn:

-Như thị như thi.

30. Phật phục cáo A-Nan:

-Như nhữ sở ngôn, vô hữu kiến tinh, ly nhứt thiết vật, biệt hữu tự-tánh, tắc nhử sở chỉ, thị vật chi trung vô thị kiến giả. Kim phục cáo nhữ: Nhữ dữ Như-Lai, tọa kỳ-đà-lâm, cánh quan lâm uyễn, nải chí nhựt nguyệt, chủng chủng tượng thù, tất vô kiến tinh thọ nhữ sở chỉ, nhữ hựu phát minh, thử chư vật trung, hà giả phi kiến?

31. A-Nan ngôn:

-Ngã thiệt biến kiến, thử Kỳ-đà-lâm, bất tri thị trung, hà giả phi kiến. Hà dĩ cố? – Nhược thọ phi kiến, vân hà kiến thọ? Nhược thọ tức kiến, phục vân hà thọ? Như thị nãi chí, nhược không phi kiến, vân hà kiến không? Nhược không tức kiến, phục vân hà không? Ngã hựu tư duy, thị vạn tượng trung, vi tế phát minh, vô phi kiến giả.

Phật ngôn:

-Như thị như thị.

32. Ư thị đại chúng, phi vô học giả, văn Phật thử ngôn, mang nhiên bât tri, thị nghĩa chung thĩ, nhứt thời hoàng tổng, thất kỳ sở thủ.

33. Như-Lai tri kỳ, hồn lự biến tập, tâm sanh lân mẫn an-ủy A- Nan, cập chư đại-chúng: Chư thiện-nam-tử! vô-thượng pháp vương, thị chơn-thiệt ngữ, như sở như thuyết, bất cuốn bất vọng, phi mạc- dà-lê, tứ chưởng bất tử, kiểu loạn luận nghị, nhữ đế tư duy, vô thiểm ai mộ.

34. Thị thời Văn-Thù-Sư-Lợi pháp-vương tử, mẫn chư tứ-chúng, tại đại chúng trung, tức tùng tỏa khởi, đảnh lễ Phật túc, hiệp chưởng cung-kỉnh, nhi bạch Phật ngôn:

35. Thế-Tôn! thử chư đại-chúng, bất ngộ Như-Lai phát minh nhị chưởng, tinh kiến sắc không, thị phi thị nghĩa.

Thế-Tôn! Nhược thử tiền duyên sắc không đằng tượng, nhược thị kiến giả, ưng hữu sở chỉ? Nhược phi kiến giả, ưng vô sở chúc? Nhi kiêm bất tri, thị nghĩa sở qui, cố hữu kinh bố, phi thị trù tích, thiện căn khinh tiển. Duy nguyện Như-Lai, đại-từ phát minh, thử chư vật-tượng, dữ thử kiến tinh, nguyên thị hà vật, ưkỳ trung gian, vô thị phi thị?

36. Phật cáo Văn-Thù, cập chư đại-chúng thập phương Như-Lai, cập đại Bồ-Tát, ưkỳ tự trú, tam-ma-địa trung, kiến dữ kiến duyên, tinh sở tưởng tướng, như hư-không hoa, bổn vô sở hữu, thử kiến cập duyên, nguyên thị Bồ-Đề, diệu tịnh minh thể, vân hà ư trung, hữu thị phi thị?

-Văn-Thù! Ngô kim vấn nhữ, như nhữ Văn-Thù, cánh hữu Văn- Thù, thị Văn-Thù giả, vi vô Văn-Thù?

37. Như thị Thế-Tôn! Ngã chơn Văn-Thù, vô thị Văn-Thù, Hà dĩ cố’? Nhược hữu thị giả, tắc nhị Văn-Thù, nhiên ngã kim nhựt, phi vô Văn-Thù, ư trung thiệt vô, thị phi nhị tướng.

38. Phật ngôn:

-Thử kiến diệu minh, dữ chư không trần, diệc phục như thị. Bổn thị diệu minh, vô-thượng Bồ-Đề, tịnh viên thân tâm, vọng vì sắc không, cập dữ văn kiến! như đệ nhị nguyệt, thùy vi thị nguyệt hựu thùy phi nguyệt?

Văn-Thù! Đãn nhứt nguyệt chờn, trung-gian tự vô, thị nguyệt phi nguyệt?

Thị dĩ nhữ kiêm, quan kiến dữ trần, chủng chủng phát minh, danh vi vọng tưởng, bất năng ư trung, xuất thị phi thị, do thị chơn tinh, diệu giác minh tánh, cố năng lịnh nhữ, xuất chỉ phi chỉ.

39. A-Nan bạch Phật ngôn:

-Thế-Tôn! Thành nhưPháp-vương, sở thuyết giác duyên, biến thập phương giới, trạm-nhiên thường-trụ, tánh phi sanh-diệt, dữ Tiên Phạm-chí, Ta-Tỳ-ca-la, sở đàm minh đế, cập đầu khôi đẳng,

chư ngoại-đạo chưởng, thiết hữu chơn-ngã, biến-mãn thập-phương, hữu hà sai-biệt?

Thế-Tôn diệc tằng, ưLăng-già sơn, vị Đại-huệ đẳng, phu diễn tư nghĩa, bỉ ngoại đạo đẳng, thường thuyết tự-nhiên, ngã thuyết nhân duyên, phi bỉ cảnh-giới. Ngã kim quan thử, giác tánh tự- nhiên, phi sanh phi diệt, viễn ly nhứt thiết, hư-vọng điên-đảo, tự phi nhân duyên, dữ bỉ tự-nhiên, vân hà khai thị, bất nhập quần tà, hoạch chơn-thiệt tâm, diệu-giác minh tánh?

40. Phật cáo A-Nan:

-Ngã kim như thị, khai thị phương-tiện, chơn-thiệt cáo nhữ, nhữ du vị ngộ, hoặc vi tự-nhiên.

A-Nan! Nhược tất tự-nhiên, tự tu yên minh, hữu tự-nhiên thễ, nhữ thả quan thử, diệu-minh kiến trung, dĩ hà vi tự? -Thử kiến vi phục, dĩ minh vi tự, dĩ ám vi tự, dĩ không vi tự, dĩ tắc vi tự?

A-Nan! Nhược minh vi tự, ưng bất kiến ám, nhược phục dĩ không, vi tự thể giả, ưng bất kiến tắc; như thị nãi chí, chư ám đẳng tướng, dĩ vi tự giả, tắc ư minh thời, kiến tánh đoạn diệt, vân hà kiến minh?

41. A-Nan ngôn:

-Tất thữ diện kiến, tánh phi tự-nhiên, ngã kim phát minh, thị nhân-duyên sanh, tâm du vị minh, tư tuân Như-Lai, thị nghĩa vân hà, hiệp nhân-duyên tánh?

42. Phật ngôn:

43. Nhữ ngôn nhân-duyên, ngô phục vấn nhữ. Nhữ kim nhân kiến, kiến tánh hiện-tiền, thử kiến vi phục, nhân minh hữu kiến? Nhân ám hữu kiến? Nhân không hữu kiến? Nhân tắc hữu kiến?

A-Nan! Nhược nhân minh hữu, ưng bất kiến ám, như nhân ám hữu, ưng bất kiến minh; như thị nãi chí, nhân không nhân tắc, đồng ư minh ám.

44. Phục thứA-Nan! Thửhựu phục, duyên minh hữu kiến? Duyên ám hữu kiến? Duyên không hữu kiến? Duyên tắc hữu kiến?

A-Nan? Nhược duyên không hữu, ưng bất kiến tắc, nhược duyên tắc hữu, ưng bất kiến không; như thị nãi chí, duyên minh duyên ám, đông ư không tắc. Đương tri như thị, tinh-giác-diệu-minh, phi nhân phi duyên, diệc phi tự-nhiên, vô phi bất-phi, vô thị phi thị, ly nhứt thiết tướng, tức nhứt thiết pháp.

Nhữ kim vân hà, ư trung tích tâm, dĩ chư thế-gian, hý luận danh tướng, nhi đắc phân-biệt, như dĩ thủ chưởng toát ma hư- không, kỳ ích tự lao, hư-không vân hà, tùy nhữ chấp tróc?

45. A-Nan bạch Phật ngôn:

-Thế-Tôn! tất diệu-giác-tánh, phi nhân phi duyên, Thế-Tôn vân hà, thường dữ tỳ khưu, tuyên-thuyết kiến-tánh, cụ tứ chưởng duyên, sở vị nhân không, nhân minh nhân tâm, nhân nhãn, thị nghĩa vân hà?

46. Phật ngôn:

47. A-Nan! Ngã thuyết thế-gian, chư nhân-duyên tướng, phi đệ nhứt nghĩa.

A-Nan! Ngô phục vấn nhữ, chưthế-gian nhân, thuyết ngã năng kiến, vân hà danh kiến, vân hà bất kiến?

48. A-Nan ngôn:

-Thế nhân nhân ư, nhựt nguyệt đăng quang, kiến chủng chủng tướng, danh chí vi kiến, nhược phục vô thử, tam chưởng quang- minh, tắc bất năng kiến.

A-Nan! Nhược vô-minh thời, danh bất kiến giả, ưng bất kiến ám, nhược tất kiến ám, thử dãn vô-minh, vân hà vô kiến?

A-Nan! Nhược tại ám thời, bất kiến minh cố, danh vi bất kiến, kiêm tại minh thời, bất kiến ám tướng, hoàn danh bất kiến, như thị nhị tướng, cu danh bất kiến; nhược phục thị tướng, tự tương lăng đoạt, phi nhữ kiến tánh, ư trung tạm vô, như thị tắc tri, nhị cu danh kiến, vân hà bất kiến?

49. Thị cố, A-Nan! Nhữ kiêm đương tri, kiến minh chi thời, kiến phi thị minh, kiến ám chi thời, kiến phi thị ám, kiến không chi thời, kiến phi thị không, kiến tắc chi thời, kiến phi thị tắc; tứ nghĩa thành-tựu, nhữ phục ưng-tri, kiến kiến chi thời, kiến phi thị kiến; kiến du ly kiến, kiến bất năng cặp, vân hà phục thuyết, nhân duyên tự-nhiên, cập hòa-hiệp tướng.

Nhữ đẳng Thinh-Văn, hiệp liệt vô thức, bất năng thông đạt, thanh tịnh thiệt tướng, ngô kiêm hối nhữ, đương thiện tư-duy, đắc vô bì đải, diệu Bồ-đề lộ.

50. A-Nan bạch Phật ngôn:

-Thế-Tôn! Như Phật Thế-Tôn, vị ngã đẳng bối, tuyên thuyết nhân-duyên, cập dữ tự-nhiên, chư hòa-hiệp tướng, dữ bất hòa- hiệp, tâm du vị khai, nhi kim cánh văn, kiến kiến phi kiến, trùng tăng mê-muội, phục nguyện hoằng từ, thí đại-huệ mục, khai-thị ngã đẳng, giác tâm minh tịnh. Tác thị ngữ dĩ, bi lụy đảnh lễ, thừa thọ Thánh-chỉ.

51. Nhĩ thời, Thế-Tôn lân mẫn A-Nan cập chư đại-chúng, tương dục phu diễn, đại đà-la-ni, chưTam-ma-đề, diệu tu hành lộ, cáo A-Nan ngôn:

-Nhữ tuy cương ký, đản ích đa văn, ư Sa-ma-tha, vi mật quan chiếu, tâm du vị liễu, nhữ kim đề thính, ngô đương vị nhữ, phân- biệt khai-thị diệc linh tương-lai, chư hữu lậu giả, hoạch Bồ-Đề quả.

52. A-Nan! Nhứt thiết chúng-sanh, luân hồi thế-gian, do nhị điên- đảo, phân-biệt kiến vọng, đương xứ phát sanh, đương nghiệp luân- chuyển.

Vân hà nhị kiến?

Nhứt giả chúng-sanh, biệt-nghiệp vọng kiến, nhị giả chúng- sanh, đồng-phần vọng-kiến.

53. Vân hà danh vi biệt-nghiệp vọng-kiến?

A-Nan! Như thế-gian nhân, mục hữu xích sảnh, dạ kiến đăng quang, biệt hữu viên ảnh, ngũ sắc trùng điệp, Ư ý vân hà? Thử dạ đang minh, sở hiện viên quang, vi thị đăng sắc, vi đương kiến sắc?

A-Nan! Thử nhược đăng sắc, tắc phi sảnh nhân, hà bất đồng kiến, nhi thử viên ảnh, duy sảnh chi quang? Nhược thị kiến sắc, kiến dĩ thành sắc, tắc bỉ sảnh nhân, kiến viên ảnh giả, danh vi hà đẳng?

Phục thứ A-Nan! Nhược thử viên ảnh, ly đăng biệt hữu, tắc hiệp bàng quang, bình trướng kỷ diên, hữu viên ảnh xuất? Ly kiến biệt hữu, ưng phi nhãn chúc, vân hà sảnh nhân, mục kiến viên ảnh?

Thị cố đương trí, sắc thiệt tại đăng, kiến bịnh vi ảnh, ảnh kiến cu sảnh, kiến sảnh phi bịnh, chung bất ưng ngôn, thị đăng thị kiến, ư thị trung hữu, phi đăng phi kiến. Như đệ nhị nguyệt, phi thể phi ảnh. Hà dĩ cố? – Đệ nhị chi quan, niết sở thành cố; chư hữu trí giả, bất ưng thuyết ngôn, thử niết căn nguyên, thị hình phi hình, ly kiến phi kiến, thử diệc như thị; mục sảnh sở thành, kiêm dục danh tùy, thị đăng thị kiến, hà huống phân-biệt, phi đăng phi kiến.

54. Vân hà danh vi đồng-phận vọng-kiến?

A-Nan! Thử Diêm-phù-đề, trừ đại-hãi thủy, trung-gian bình lục, hữu tam thiên châu, chánh trung đại châu đông tây quát lượng, đại-quốc phàm hữu, nhị thiên tam bá, kỳ dư tiểu-châu, tại chư hãi trung, kỳ gian hoặc hữu, tam lưởng bá quốc, hoặc nhứt hoặc nhị, chí vu tam thập, tứ thập ngũ thập.

A-Nan! Nhược phục thử trung, hữu nhứt tiểu-châu, chỉ hữu lưỡng quốc, duy nhứt quốc nhân đồng cãm ác-duyên, tắc bi’ tiểu- châu, đương độ chúng-sanh, đổ chư nhứt thiết, bất tường cảng giới, hoặc kiến nhị nhựt, hoặc kiến lưỡng nguyệt, kỳ trung nãi chí, lưỡng thích bội quyết, huệ bột phi lưu, phụ nhĩ hồng hiện: chủng chủng ác tướng, dãn thử quốc kiến, bỉ quốc chúng-sanh, bổn sở bất kiến, diệc phục bất văn.

55. A-Nan! Ngô kiêm vị nhữ, dĩ thử nhị sự, tấn thối hiệp minh.

A-Nan! Như bỉ chúng-sanh, biệt-nghiệp vọng-kiến, chúc đăng quang trung, sở hiện viên ảnh, tuy hiện tơ cảnh, chung bỉ kiến giả, mục sảnh sở tha, sảnh tức kiến lao, phi sắc sở tạo, nhiên kiến sảnh giả, chung vô kiến cửu.

Lệ nhữ kim nhựt, dĩ mục quan kiến, sơn hà quốc độ, cập chư chúng-sanh, giai thị vô thỉ, kiến bịnh sở thành, kiến dữ kiến duyên tợ hiện-tiền cảnh; nguyên ngã giác-minh, giác sảnh, giác phi sảnh trung, thử thiệt kiến kiến, vân hà phục danh giác văn tri kiến?

Thị cố nhữ kim, kiến ngã cập nhữ, tinh chư thế-gian, thập loại chúng-sanh, giai tức kiến-sảnh, phi kiến sảnh giả, bỉ kiến chơn tinh, tánh phi sảnh giả, cô” bất danh kiến.

56. A-Nan! Như bỉ chúng-sanh, đồng-phận vọng-kiến, lệ bỉ vọng- kiến, biệt-nghiệp nhứt nhân, nhứt bịnh mục nhân, đồng bỉ nhứt quốc, bỉ kiến viên ảnh, sảnh vọng sở sanh, thử chúng đồng-phận, sở-kiến bất tường, đồng-kiến nghiệp trung, chướng ác sở khởi, cu thị vô thỉ, kiến vọng sở sanh.

Lệ Diêm-Phù-đề, tam thiên châu trung, kiêm tứ đại-hải, Ta- bà thế-giơí, tinh kỵ thập phương, chưhữu-lậu quốc, cập chư chúng sanh, đồng thị giác minh vô lậu diệu tâm, kiến văn giác tri, hư- vọng bịnh duyên, tri hiệp vọng sanh, hòa-hiệp vọng tử.

Nhược năng viễn ly, chư hòa-hiệp duyên, cập bất hòa-hiệp, tắc phục bất diệt-trừ, chư sanh tử nhân, viên-mãn Bồ-đề, bất sanh diệt tánh, thanh-tịnh bổn-tâm, bổn-giác thường-trụ.

57. A-Nan! Nhữ tuy tiên ngô, bổn-giác diệu minh, tánh phi nhân duyên, phi tụ nhiên tánh, nhi du vị minh, như thị giác nguyên, phi hòa-hiệp sanh, cập bất hòa-hiệp.

A-Nan! ngô kim phục dĩ, tiền trần vân nhữ, nhữ kim du dĩ, nhứt thiết thế-gian, vọng-tưởng hòa-hiệp, chư nhân-duyên tánh, nhi tự nghi-hoặc, chứng bồ-đề tâm, hòa-hiệp khởi giả; tắc nhữ kim giả, diệu tịnh kiến tinh, vi dữ minh hòa, vi dữ ám hòa, vi dữ thông hòa? Vi dữ tắc hòa?

Nhược minh hòa giả, thả nhữ quang minh, đương minh hiện tiền, hà xứ tạp kiến, kiến tướng khả biện, tạp hà hình-tượng?

Nhược phi kiến giả, vân hà kiến minh?

Nhược tức kiến giả, vân hà kiến kiến?

Tất kiến viên mãn, hà xứ hòa minh?

Nhược minh viên mãn, bất hiệp kiến hòa, kiến tất dị minh, tạp tắc thất bỉ, tánh minh danh tự, tạp thất minh tánh, hòa minh phi nghĩa; bỉ ám dữ thông, cập chư quần tắc diệc phục như thị.

58. Phục thứ A-Nan! Hựu nhữ kim giả, diệu tịnh kiến tinh, vi dữ minh hiệp, vi dữ ám hiệp? Vi dữ thông hiệp? Vi dữ tắc hiệp?

Nhược minh hiệp giả, chí ư ám thời, minh tướng dĩ diệt, thử kiến tức bất, dữ chư ám hiệp. Vân hà kiến ám?

Nhược kiến ám thời, bất dĩ ám hiệp, dữ minh hiệp giả, ưng phi kiến minh, ký bất kiến minh, vân hà minh hiệp, hiển minh phi ám, bỉ ám dữ thông, cập chư quần tắc, diệc phục như thị.

59. A-Nan bạch Phật ngôn:

– Thế-Tôn! Như ngã tư-duy, thử diệu giác nguyên, dữ chư duyên-trần, cập tâm niệm-lự, phi hòa-hiệp da?

60. Phật ngôn:

-Nhữ kim hựu ngôn, giác phi hòa-hiệp, ngô phục vấn nhữ, thử diệu kiến-tinh, phi hòa-hiệp giả, vi phi minh hòa? Vi phi ám hòa? Vi phi thông hòa? Vi phi tắc hòa?

Nhược phi minh hòa, tắc kiến dữ minh, tất hữu biên bạn, nhữ thả đề quan hà xứ thị minh, hà xứ thị kiến, tại kiến tại minh tự hà vi bạn?

A-Nan! Nhược minh tế trung, tất vô kiến giả, tắc bất tương cập, tự bất tri kỳ, minh tướng sỡ tại bạn vân hà thành? Bỉ ám dữ thông, cập chư quần tắc, diệc phục như thị.

61. Hựu diệu kiến tinh, phi hòa-hiệp giả, vi phi minh hiệp, vi phi ám hiệp, vi phi thông hiệp, vi phi tắc hiệp? Nhược phi minh hiệp, tắc kiến dữ minh, tánh tương quai dác, như nhỉ dữ minh, liễu bâ’t tương xúc, kiến thả bất tri, minh tướng sở tại, vân hà kiến minh, hiệp phi hiệp lý? Bỉ ám dữ thông, cập chư quần tắc diệc phục như thị.

62. A-Nan! Nhữ du vị minh, nhứt thiết phù trần, chư huyễn-hóa tướng đương xứ xuất sanh, tùy xứ diệt tận, huyễn vọng xưng tướng, kỳ tánh chơn vi, diệu-giác minh thể. Như thị nãi chí, ngũ ấm lục nhập, tùng thập, nhị xứ, chí thập-bát giới.

Nhân- duyên hòa-hiệp, hư-vọng hữu sanh, nhân duyên biệt ly, hư vọng danh diệt.

63. Thù bất năng tri, sanh-diệt khứ lai, bổn Như-Lai-tạng, thường trụ diệu-minh, bất động châu-viên, diệu chơn-nhưtánh, tánh chơn thường trung cầu ư khứ-lai mê-ngộ sanh tử, liễu vô sở đắc.

64. A-Nan! Vân hà ngủ ấm, bổn Như-Lai tạng, diệu chơn-như tánh1?

65. A-Nan! Thí như hữu nhân, dĩ thanh, tịnh mục, quan tình minh không, duy nhứt tinh hư, hướng vô sở hữu, kỳ nhân vô cố, bất động mục tinh, trừng dĩ phát lao, tắc ư hư-không biệt kiến cuồng-ba, phục hữu nhứt thiết, cuồng loạn phi tướng; sắc ấm đương tri, diệc phục như thị.

A-Nan! Thị chư cuồng-ba, phi tùng không lai, phi tùng mục xuất.

66. Như thị, A-Nan! Nhược không lai giả, ký tùng không lai, hoàn tùng không nhập, nhược hữu xuất nhập, tức phi hư-không không nhược phi không, tự bất dung kỳ, ba tướng khởi diệt, như A-Nan thể, bất dung A-Nan.

67. Nhược mục xuất giả, ký tùng mục xuất, hoàn tùng mục nhập, tức thử ba tánh, tùng tự mục cố, đương hiệp hữu kiến, nhược hữu kiến giả, khứ ký ba không, triền hiệp kiến nhãn, nhược vô kiến giả, xuất ký ế không, triền đương ế nhãn, hựu kiến ba thời, mục ưng vô ế, vân hà tĩnh không, hiệu thanh-minh nhãn?

Thị cố đương tri, sắc-ấm hư-vọng, bổn phi nhân duyên, phi tự- nhiên tánh.

68. A-Nan! Thí như hữu nhân, thủ túc yến an, bá hài điều thích, hốt như xuất sanh, tánh vô di thuận, kỳ nhơn vô số, dĩ nhị thủ chưởng, ư không tương ma, ư nhị thủ trung, vọng sanh sáp hoạt, lảnh nhiệt chư tướng; thọ-ấm đương tri, diệc phục như thị.

69. A-Nan! Thị chư huyễn xúc, bất tùng không lai, bất tùng chưởng xuất. Như thị A-Nan! nhược không lai giả, ký năng xúc chưởng, hà bất xúc thân, bất ưng hư-không, tuyễn trạch lai xúc. Nhược tùng chưởng xuất, ưng phi dải hiệp. Hựu chưởng xuất cô”, hiệp tắc chưởng tri, ly tắc xúc nhập, tý uyễn cốt tủy, ưng diệc giác tri, nhập thời tung tích, tất hữu giác tâm, tri xuất tri nhập, tự hữu nhứt vật, thân trung vãng lai, hà dải hiệp tri, yếu danh vi xúc.

Thị cố đương tri, thọ-ấm hư-vọng bổn phi nhân-duyên, phi tự- nhiên tánh.

70. A-Nan! Thí như hữu nhân, đàm thuyết thố mai, khẩu trung thũy xuất, tư đạp huyền nhai, túc tâm toan sáp; tưởng ấm đương tri diệc phục như thị.

71. A-Nan! Như thị tạc thuyết, bất tùng mai sanh, phi tùng khẩu nhập.

Như thị A-Nan! Nhược mai sanh giả, mai hiệp tự đàm, hà đải nhân thuyết? Nhược tùng khẩu nhập, tự hiệp khẩu văn, hà tu đải nhỉ? Nhược độc nhỉ văn, thử thũy hà bất, nhỉ trung nhi xuất?

Tương đạp huyền nhai, dữ thuyết tương loại.

Thị cố đương tri, tưởng-ấm hư-vọng, bổn phi nhân-duyên, phi tự-nhiên tánh.

72. A-Nan! Thí như bạo lưu, ba lãng tương tục, tiền tế hậu tế, bất tương du việt; hành ấm đương tri, diệc phục như thị.

A-Nan! Như thị Lưu tánh, bất nhân không sanh, bất nhân thủy hữu, diệc phi thủy tánh, phi ly không thủy.

Như thị A-Nan! Nhược nhân không sanh, tắc chư thập phương, vô tận hư-không, thành vô tận lưu, thế-giới tự-nhiên, cu thọ luân nịch. Nhược nhân thủy hữu, tắc thử bạo lưu, tánh ưng phi thủy, hữu sở hữu tướng, kim ưng hiện-tại. Nhược tức thủy tánh, tắc trừng thanh thời, ưng phi thử thể. Nhược ly không thủy, không phi hữu ngoại, thủy ngoại vô lưu.

Thị cố đương trí, hành ấm hư-vọng bổn phi nhân-duyên, phi tự- nhiên tánh.

73. A-Nan! thí như hữu nhân, thửtần-già bình, tắc kỳ lưỡng khổng, mãn trung kình không, thiên lý viễn hành, dụng hướng tha quốc; thức-ấm đương tri, diệc phục như thị.

A-Nan! Như thị hư-không, phi bỉ phương lai, phi thử phương nhập.

Như thị, A-Nan! Nhược bỉ phương lai, tắc bổn bình trung, ký trử không khứ, ư bổn bình địa, ưng thiểu hư-không. Nhược thử phương nhập, khai khổng đảo bình, ưng kiến không xuất.

Thị cô’dương tri, thức-ấm hư-vọng, bổn phi nhân-duyên, phi tự- nhiên tánh.

1. PHẬT HIỂN-MINH TÁNH THAY KHÔNG DỨT

Khi ấy, Ngài A-Nan và Đại-chúng nghe qua lời Phật dạy, mặc- nhiên thân-tâm được vui vẻ. Ai ai cũng tự xét rằng từ vô-thỉ, quên mất Bổn-Tâm, nhận lầm cái bóng duyên-trần phân-biệt làm Tâm, đến ngày nay mới được khai sáng, ví như đứa con khát sữa bỗng- nhiên gặp lại bà mẹ lành. Thế nên tất cả Đại-chúng đều hiệp- chưỏng lạy Phật, chí thành thỉnh Phật giải-thích minh-bạch, các thứ chơn, vọng, thiệt, hư ở thân-tâm, và hiện-tiền hai tánh: sanh- diệt và không sanh-diệt.

2. Tức thời Vua Ba-Tư-Nặc đứng dậy bạch Phật:

-Bạch Đức Thế-Tốn! Trước khi chưa được chư Phật khai sáng, tôi có nghe hai nhà sư ngoại-đạo là Ca-Chiên-Diên và Tỳ-La-Đề Tử nói rằng: Thân chết rồi tiêu mất gọi là Niết-Bàn. Nay tuy tôi được Như-Lai dạy-dỗ, nhưng tôi còn nghi-ngờ chỗ ấy. Xin cung- thĩnh Đức Thế-Tôn chỉ dạy rõ-ràng các bằng-cớ chứng-minh Tâm bất sanh bất diệt cho tôi và cả Đại-chúng hữu-lậu được lãnh-hội.

3. Đức Phật hỏi Vua Ba-Tư-Nặc:

-Thân của Đại-Vương hiện-tại là xác-thịt có bền-chắc như Kim-cang thường trụ chăng? Hay là một vật vô-thường biến-diệt?

-Bạch Đức Thế-Tôn! Thân tôi hiện-tại vô-thường biến-diệt.

-Đại-vương chưa từng diệt mà sao biết thân diệt?

-Bạch Đức Thế-Tôn! Tuy tôi chưa diệt, nhưng hiện-tại tôi quan-sát thấy thân từ từ thay-đổi như lửa thành tro lần lần tiêu- mất. Như thế làm cho tôi biết rõ nhục-thân chắc chắn phải tiêu- diệt.

Đức Phật khen:

-Đại-vương nói đúng. Nay Đại-vương già yếu, hình-dung hiện-tại có tương-đương với hình-dung trong thời thiếu-niên chăng?

-Bạch Đức Thế-Tôn! Trong thời thiếu-niên, da-thịt tươi-nhuận, đến lúc trưởng-thành, khí-huyết sung-mãn, nhưng hiện-tại trong cảnh chiều-tàn, hình-dung ốm-yếu, tinh-thần lẫn-lộn, tóc bạc mặt nhăn, sống chẳng bao lâu nữa, không làm sao sánh bằng tuổi bé.

-Đại-vương! Hình-dung của Đại-vương biến-đổi mau hay chậm?

-Bạch Đức Thế-Tôn! Tôi thiệt không biết nỗi sự biến-hóa âm- thầm của thân. Tôi chỉ biết ngày tháng thấm-thoát, lạnh nóng thay-đổi, tới nay thân đã suy-nhược. Vì sao? Vì khi tôi được 20 tuổi gọi là còn trẻ nhưng diện-mạo già hơn hồi 10 tuổi. Khi được 30 tuổi lại kém hơn hồi 20 tuổi. Nay tôi được 62 tuổi, ngó lại hồi 50 tuổi tôi còn mạnh-khỏe hơn nhiều.

Bạch Đức Thế-Tôn! Tôi thây thân âm-thầm thay-đổi, hạn-định thay-đổi ước-độ 10 năm, nhưng nghiệm-xét thì hạn-định thay-đổi, chẳng những 12 năm hoặc 24 năm mà lại mỗi năm mỗi đổi; chẳng những hàng năm mà lại mỗi tháng mỗi đổi; chẳng những hàng tháng mà mỗi ngày mỗi đổi. Nếu quan-sát cùng-tột thì mỗi niệm mỗi đổi, cho tới mỗi Sát na (1) mỗi đổi, không khi nào ngừng. Do đó tôi biết thân tôi vô-thường, có sanh tất có diệt.

4. Đại-vương thấy sự biến-hóa không ngừng mà biết được thân phải diệt, nhưng khi thân diệt rồi, ông có biết trong thân có cái gì không diệt chăng?

-Bạch Đức Thế-Tôn! Tôi thiệt không biết.

-Nay Ta khai-thị cho Đại-vương biết rõ tánh không sanh-diệt. Đại-vương khởi sự thấy nước sông Hằng hồi bao nhiêu tuổi?

-Bạch Đức Thế-Tôn! Hồi tôi được 3 tuổi, thân-mẫu tôi có dẫn tôi đến lễ thần Kỳ-Bà-Thiên (2), phải đi ngang sông Hằng, nên tôi biết nước sông Hằng.

-Như lời Đại-vương đã nói, thời 20 tuổi kém hơn thời 10 tưởi, cứ suy-yếu lần tới thời 62 tuổi, thời-gian thay-đổi, các niệm cũng thay-đổi luôn luôn. Như vậy khi 3 tuổi, Đại-vương thấy nước sông Hằng tới khi 13 tuổi, Đại-vương cũng thấy nước ấy, nhưng cái thấy có khác chăng?

-Bạch Đức Thế-Tôn! Không khác, cho tới nay 62 tuổi cái thấy giống in như vậy, không thay-đổi chút nào cả.

-Đại-vương buồn-tủi thân mình tóc bạc da nhăn, tuổi già suy- yếu hơn tuổi trẻ. Vậy hiện nay Đại-vương thấy nước sông Hằng, nếu sánh với cái thấy hồi còn bé, có già trẻ khác nhau chăng.

-Bạch Đức Thế-Tôn! Không khác chi cả.

5. Đức Phật bảo Vua Ba-Tư-Nặc:

-Đại-vương! Mặt của Đại-vương nhăn chớ cái thấy không bao giờ nhăn. Phải biết cái nhăn là cái biến-đổi, cái không nhăn là cái không biến-đổi; biến-đổi thì diệt, không biến-đổi thì không diệt. Đã là cái không diệt thì chẳng có lý nào lại theo thân của Đại- vương mà thọ sanh-tử, để Đại-vương phải lầm lời nói của dòng- dõi ngoại-đạo Mạt-già-lê (3): Thân chết rồi tiêu mất.

6. Vua Ba-Tư-Nặc nghe Phật dạy thì nhận định:

-Thân người diệt, chớ cái tánh thấy không diệt. Người đời bỏ thân này sang thân khác, thay hình đổi xác, luân-chuyển mãi chớ không phải tiêu mất. Vua và Đại-chúng đều vui mừng vì được thọ-lãnh một việc chưa từng có.

7. PHẬT HIỂN-MINH TÁNH THAY không mát.

Ngài A-Nan đứng dậy lễ Phật rồi quì gối, hiệp chưởng bạch Phật:

-Bạch Đức Thế-Tôn! Nếu tánh thấy nghe không sanh-diệt thì tại sao Đức Thế-Tôn lại quở chúng tôi quên mất Chơn-Tánh, làm việc điên-đảo. Cầu xin Đức Thế-Tôn từ-bi khai sáng chỗ mê-lầm của chúng tôi.

8. Tức thời Đức Như-Lai duỗi cánh tay vàng chỉ xuống đất, hỏi Ngài A-Nan:

-Bây giờ ông xem tay Mầu-đà-la (4) của Ta chánh hay đảo?

-Bạch Đức Thế-Tôn! Người thế-gian nói như thế là đảo, riêng tôi, không biết thế nào chánh? Thế nào đảo?

-A-Nan! Nếu người thế-gian nói như vậy là đảo, thì thế nào là chánh?

-Bạch Đức Thế-Tôn! Như-Lai đưa cánh tay vàng trở lên thì người thế-gian mới gọi là chánh.

Đức Phật liền đưa cánh tay vàng trở lên rồi nói :

-A-Nan cái chánh, cái đảo là đầu đổi làm đuôi, đuôi đổi làm đầu, chớ cánh tay không mất, người thế-gian đều thấy như vậy. Do đó ông biết nhục-thân ông và Pháp-thân Phật. Nhục-thân của ông là điên-đảo, còn Pháp-thân thanh-tịnh của Phật là Chánh-biến- tri (S).

So sánh và phát-minh hai thân ấy thì thân của ông vốn là điên- đảo. Ông có biết do chỗ nào mà cho là điên-đảo?

9. Bấy giờ ngài A-Nan và Đại-chúng sửng-sốt nhìn Phật không thưa hỏi được điều chi, vì chẳng biết chỗ điên-đảo của thân-tâm.

10. Đức Phật động lòng từ-bi thương-xót ngài A-Nan và Đại-chúng, phát ra tiếng nói hải-triều phổ-cáo chúng-hội:

-ChưThiện-nam-tử! Ta thường nói rõ các duyên về sắc, tâm, các nghiệp chơn-vọng của tâm-sở, các pháp sở-duyên sáng-tối, chánh-tà, tánh-tướng, nhân-quả… tất cả thế-gian pháp và xuất thế- gian pháp đều do Tâm Như-Lai Tạng phát sanh Thân-hoạn của các ông vốn là vật ở trong điệu-minh Chơn-Như-Tâm, cớ sao ông lại quên mất Tâm diệu-minh ấy mà nhận cái mê ở trong ngộ. Đó là chỗ điên-đảo của thân-tâm.

Ban-sơ, vì một niệm mê-muội mà có vô-minh, do vô-minh mà hóa ra ngoan-không, rồi lại sanh ra sắc tứ-đại(6), kết vọng-tưởng mà hóa ra thân ngũ-uẩn (7). Đó là thân mê ở trong ngộ. Khi thân tứ-đại giả-hiệp, trong thì hiệp với vọng-tưởng, ngoài thì hiệp với sắc-trần mà sanh ra đen-tối u-ám, rồi chấp cái tướng đen-tối u-ám làm Tâm diệu-minh. Đó là tâm mê ở trong ngộ.

Nếu mê-chấp như vậy thì chắc-chắn lầm tâm ở trồng thân tứ- đại, chớ không rõ: từ cái thân tứ-đại cho tới núi sông, hư-không, đất-đai đều là vật ở trong diệu-minh Chơn-Như-Tâm. Ví như bỏ cả trăm ngàn biển lớn, lại nhận chút bọt nước mà cho là nước của các biển. Thể theo lý do mà nghiệm-xét, các ông cũng đủ biết rõ: bỏ biển nhận bọt cũng như bỏ chơn theo vọng. Đó là hạng người mê ở trong mê. Chỗ điên-đảo của các ông như vậy chẳng khác chi cánh tay chỉ xuống đất mà các ông gọi là đảo. Thế nên các ông là hạng người đáng thương-xót vô cùng.

11. PHẬT HIEN-MINH TÁNH THAY KHÔNG HOÀN

Ngài A-Nan nghe Phật từ-bi dạy-dỗ như vậy, lấy làm cảm- động, tủi khóc rồi đứng vòng tay cung-kính bạch Phật:

-Bạch Đức Thế-Tôn! Tôi nghe tiếng pháp nhiệm-mầu của Đức Thế-Tôn, biết được Tâm diệu-minh vốn là tâm-địa bổn-lai thường-trụ viên-mãn. Tuy nhiên trong khi nghe pháp-âm, tôi dùng tâm phan-duyên(8) mà chiêm-ngưỡng Đức Thế-Tôn và chăm nghe Pháp lành. Hiện giờ ngộ thì có ngộ, nhưng chưa dám nhận tâm- địa bổn-lai thường-trụ viên-mãn. Vì thế tôi kính xin Đức Thế-Tôn thương-xót, lấy lời nói hoàn-toàn sáng-suốt tẩy-sạch các sự nghi- ngờ của tôi để tiếp-dẫn tôi trở về Vô-Thưựng đạo (9).

12. Đức Phật bảo:

-A-Nan Nếu ông và Đại-chúng lấy tâm phan-duyên để nghe pháp thì pháp cũng là duyên hay sao? Nếu pháp là duyên thì không phải thiệt là pháp-tánh.

Ví như có ai lấy ngón tay chỉ mặt trăng cho người xem thì người xem nương theo ngón tay mà thấy được mặt trăng chớ không phải nhận ngón tay làm mặt trăng. Vì cớ sao? – Vì nếu nhận ngón tay làm mặt trăng thì chẳng những không biết mặt trăng, lại còn không biết ngón tay, cũng có thể không biết sáng tối. Vì cớ sao? – Mặt trăng thì sáng, ngón tay thì tôi. Nếu không biết cả mặt trăng và ngón tay, tất không làm sao rõ được hai thể-tánh sáng tối.

Như nghe pháp-âm mà không đạt pháp-tánh thì chẳng khác chi nhận ngón tay làm mặt trăng.

13. A-Nan! Ông cũng như vậy. Nếu ông dùng Tâm phân-biệt để nghe pháp-âm của Ta và cho Tâm ấy là Chơn-Như-Tâm của ông, thì Tâm ấy khi ly pháp-âm có thể-tánh phân-biệt riêng. Giả-sử như có người khách tạm ở tại quán một đêm rồi đi, chớ không có ở thường trực.

Nếu phải là chủ-nhân thì chắc-chắn ở luôn tại quán.

Khách ví-dụ với vọng-tâm. Chủ ví-dụ với Chơn-Tâm. Nếu Tâm phân-biệt là Chơn-Tâm thì giống như chủ-quán ở tại một chỗ chớ không có đi đâu nữa. Tại sao Tâm phân-biệt ấy khi ly âm- thinh lại không còn có tánh phân-biệt chẳng khác chi người khách ở tạm tại quán một đêm rồi đi? Như vậy chẳng những nói về tâm phân-biệt âm-thinh mà lại nói tới tâm phân-biệt hình-thể, khi ly các sắc-tướng cũng không còn có tánh phân-biệt, dĩ-chí các tâm phân-biệt về các món hương, vị, xúc, pháp, cũng chẳng có Tự- Tánh.

A-Nan! Nếu Tâm ông chẳng có Tự-Tánh thì ngoài thân của ông không có thiệt sắc. Nếu không có thiệt sắc thì chẳng phải sắc. Tuy nhiên khi đối duyên thì vọng khởi ra có sắc tức là chẳng phải không. Vì chỗ phi sắc phi không, nên nhà sư ngoại-đạo Câu-Xá- Ly (cũng gọi là Mạt-già-Lê) chấp lấy chỗ ấy làm minh-đế (I0). Nếu tâm-tánh lìa các duyên của Pháp-trần, không có tánh phân- biệt thì tâm tánh ấy có thể trả về chỗ nọ chỗ kia tức là có chỗ hoàn, như vậy ông lấy cái gì làm chủ?

14. – Bạch Đức Thế-Tôn! Hoàn có nghĩa là trả, ví như mượn của người thì hoàn lại cho người, còn nếu vật của mình thì không có chỗ hoàn.

Nay Tâm phân-biệt của tôi có chỗ hoàn, còn Tâm diệu-minh do Như-Lai nói đó tại sao không có chỗ hoàn? -Ngưỡng-cầu Đức Thế-Tôn thương-xót dạy-bảo cho chúng tôi.

15. Đức Phật dạy:

– A-Nan! Hiện tiền ông thấy Ta, chẳng hạn như thấy 32 tướng tốt vì ông có kiến-tinh gốc sáng-suốt, tánh thấy đó tuy không phải Tâm diệu-minh, nhưng có thể ví như mặt trăng thứ hai, chớ không phải bóng trăng (n). Nay Ta khai-thị cho ông tánh thấy không hoàn. Vậy ông hãy chăm-chỉ nghe.

A-Nan! Giảng-đường rộng-rãi nầy, khi khai hướng Đông, ban ngày mặt trời chiếu, sáng-rõ, ban đêm không trăng, mây-mù u- ám, phải tối-đen; cửa mở, thấy thông thương; bít vách, thấy ngăn- cách; chỗ phân-biệt, thấy các sắc duyên; chỗ hư-không, thấy trống-rỗng; chỗ rậm-rạp phức-tạp, thấy bụi mịt-mù; chỗ trời thanh-bạch, thấy trong-suốt.

A-Nan! Ông có xem các tướng biến-hóa như thế. Bây giờ Ta trả các tướng ấy về chỗ bổn-nhân. Thế nào là bổn-nhân (l2)?

A-Nan! Trong các tướng ấy, sáng-rỡ hoàn lại mặt trời vì nhờ có mặt trời chiếu mới được sáng.

Tối đen hoàn lại đêm không trăng.

Thông-thương hoàn lại cửa mỡ.

Ngăn cách hoàn lại vách bít.

Sắc duyên hoàn lại chỗ phân-biệt

Trống-rỗng hoàn lại hư-không.

Bụi mù-mịt hoàn lại chỗ rậm-rạp.

Trong suốt hoàn lại chỗ trời thanh-bạch.

Tất cả vật-tướng ở thế-gian đều không ngoài tâm-tướng ấy.

16. – A-Nan! Tánh thấy hoàn lại chỗ nào?

Ví như tướng sáng hoàn lại mặt trời thì tánh thấy đã theo tướng sáng đi rồi, đến khi tối thì lấy gì thấy tối? Sáng tối tuy hai tướng khác nhau, nhưng tánh thấy không khác, không thay-đổi.

A-Nan! Vật nào mà ông hoàn được là vật mượn chớ không phải vật của ông. Vật nào mà ông không hoàn được tức là không phải vật mượn, dĩ nhiên là vật của ông, chớ không còn nghi là vật của kẻ khác.

Ông biết kiến-tinh chẳng hoàn được, thì ông biết Tâm Chơn- Như bổn-lai diệu-minh thường-trụ cũng chẳng hoàn lại được. Thế nên kiến-tinh là chủ trong khách, Tâm Chơn-Như là chủ trong chủ. Nếu ông biết chủ trong khách tất nhiên biết chủ trong chủ. Vì ông tự mê-muội, quên mất bổn-lai Diện-Mục của mình nên bị chìm đắm trong biển khổ luân-hồi sanh-tử.

Thế nên Như-Lai cho là đáng thương-xót.

17. PHẬT HIỂN-MINH TÁNH THAY KHÔNG TẠP

Ngài A-Nan bạch Phật:

– Bạch Đức Thế-Tôn! Nghe qua lời dạy của Đức Thế-Tôn, tôi nhận-thức: tánh thấy không hoàn, nhưng làm thế nào biết rõ tánh kiến-tinh là chơn-tánh của tôi.

18. Đức Phật dạy:

– A-Nan! Ta cho ông rõ: Nay ông chưa thành bậc vô-lậu thanh- tịnh, nhưng nhờ Phật-lực thấy được cõi Sơ-thiền, không bị ngăn- ngại, ông A-Na-Luật thấy thế-giới Diêm-phù-đề (13) như xem trái A-ma-la ở trong tay<14). chưBồ-Tát thấy trăm ngàn Thế-giới. Thập- phương Như-Lai thấy tất cả quốc-độ thanh-tịnh nhiều như vi-trần, không chỗ nào mà không thấy. Chí như sức thấy của chúng-sanh không quá một gang tay. Tuy năm sức thấy vừa kể trên khác nhau nhưng tánh thấy giống nhau.

19. A-Nan! Ông và Ta đồng xem cung-điện của Tứ-Thiên-Vương. Ớ khoảng giữa thấy đủ nước non, các loài lội, đi, bay, chạy, có sáng có tối, tuy nhiều hình-tượng khác nhau nhưng không có cái nào chẳng phải là tiền-trần phân-biệt làm ngăn-ngại tánh thây của ông. Ông hãy căn-cứ ở đó mà phân-biệt cái tự cái tha.

Bây giờ Ta cho phép ông chọn-lựa trong cái thấy, cái nào là ngã-thể tức là tánh thấy của ông, cái nào là vật-tượng tức là hình- sắc.

20. A-Nan! Ông lấy hết sức tánh thấy của ông, xem hai cung nhựt nguyệt tức là vật, chớ không phải ông. Xem tới khắp núi Thất- kim, tuy có nhiều thứ quang-minh, nhưng cũng là vật, chớ không phải ông. Từ từ xem tất cả mây kéo chim bay, gió thổi, bụi-bặm, cây đá, núi sông, cỏ hoa, nhân súc, thảy đều là vật chớ không phải ông.

21. A-Nan! Tuy các vật ở gần ở xa, có hình-sắc khác nhau nhưng thảy đều ở trong kiến-tinh thanh-tịnh của ông. Vì thế các vật tự có sai-biệt, chớ kiến-tinh của ông không sai-biệt. Thế thì biết rõ: cái không sai-biệt đó mới thiệt là tánh thấy của ông nguyên ở trong Tâm diệu-minh.

22. A-Nan! Nếu cái thây là vật thì đáng lẽ ông phải thấy được cái thây của Ta, nhưng ông lại không thấy. Nếu ông và Ta đồng thấy một vật tức là ông thấy được cái thây của Ta, thì trong khi Ta không thấy vật đó, ông lại chẳng thấy được cái “không thấy” của Ta. Như vậy cái thấy của ông và của Ta không phải là vật, dĩ – nhiên là Tự-Tánh của mỗi người.

23. Lại như vầy nữa, cái thấy thuộc về hữu-tình, vật thuộc về vô- tình. Nếu lấy cái thấy làm vật thì ông thấy vật, vật cũng thấy ông, thể-tánh xen-lộn, như vậy ông và Ta cùng các hình-sắc thế-gian không làm sao an-lập được.

A-Nan! Cái thấy tuy đồng, nhưng ông thấy tức là cái thây của ông, Ta thấy tức là cái thấy của Ta, phần ai nấy thấy. Thế thì cái thấy bao-trùm của ông thiệt là Chơn-Tánh của ông. Nếu không tin Chơn-Tánh của ông ở nơi ông, lại chấp pháp-âm của Ta mà cầu Chơn-Tánh nào khác, hóa ra ông sai-lầm hay sao?

24. PHẬT HlỂN-MINH tánh thay không ngại.

Ngài A-Nan bạch Phật:

-Bạch Đức Thế-Tôn! Nếu tánh thấy ấy là của tôi, chớ không phải của ai khác, thì khi Như-Lai và tôi thấy đủ cung-điện Tứ- Thiên-Vương, nơi cung Nhựt-Nguyệt, cái thấy trùm khắp Ta-Bà; đến khi trở về TỊnh-Xá chỉ thấy ở ngoài vườn và ở trong là sườn- cột mà thôi.

Bạch Đức Thế-Tôn! Tánh thấy gốc trùm khắp các cõi, nhưng nay ở trong nhà chỉ thấy nội khuôn nhà, thì tánh thấy tự thâu-hẹp lại, lớn thành nhỏ hay là bị vách ngăn-trở tánh thấy? Tôi chưa hiểu chỗ sở-do, cầu xin Đức Phật từ-bi giảng dạy.

25. Đức Phật dạy:

-A-Nan! Tất cả sự vật ở thế-gian, lớn hoặc nhỏ, ở trong hoặc ở ngoài, đều thuộc tiền-trần, tiền-trần hữu-hình nên có thâu-hẹp, có hạn-chế, chớ tánh thấy vô-hình không làm sao có được hai thứ tác-dụng ấy.

Ví-dụ nhưcó một món vật-dụng vuông-vức thì trong vật vuông ấy, thấy hư-khỏng vuông. Ta hỏi ông: trong vật vuông thì thấy hư- không vuông, hư-không vuông có nhứt-định hay chẳng nhứt-định? Nếu nói hư-không vuông có nhứt-định thì khi dùng một vật tròn, đáng lẽ hư-không chẳng thành tròn. Nếu nói hư-không vuông chẳng nhứt-định thì khi ở trong đồ vuông, đáng lẽ hư-không chẳng thành vuông. Hễ vật tròn thì hư-không tròn, vật vuông thì hư- không vuông, nghĩa-lý như vậy, làm sao có sở-do? Nếu muốn hư- không chẳng có vuông, tròn thì bỏ vật-chất vuông, tròn, còn hư- không chỉ tùy vật-chất, chớ bổn-thể của hư-không chẳng có tướng vuông, tròn thì lấy chi mà bỏ.

26. A-Nan! Ông nói: Khi vào trong nhà, thâu-hẹp tánh thấy nhỏ lại, thì khi ngửa mặt trông lên mặt trời, ông có cần đem tánh thấy lên tới mặt trời không? Chí như ông nói vách ngăn-trở tánh thấy thì khi khoét một lỗ trống ở vách, ông có cần đem tánh thấy ở ngoài nốì với tánh thấy ở trong không?

Như vậy chứng tỏ lời nói của ông không đúng.

Tất cả chúng-sanh, từ-vô-thỉ tới nay, mê mình làm vật, quên mất Bổn-Tâm thì không chuyển được vật, lại để vật chuyển, nên đối với tiền-trần mới thấy có lớn có nhỏ, vì thế tánh thấy bị tiền- trần làm trở-ngại, ví như tuyết vốn là nước, nhưng kết nước thành tuyết, thì tuyết trở-ngại cho nước.

Nếu vật chuyển Bổn-Tâm thì làm chúng-sanh. Nếu Bổn-Tâm chuyển vật thì đồng với Như-Lai, Tâm và thân được hoàn-toàn sáng-suốt, tự-tại vô-ngại, viên-thông sự-lý thanh-tịnh đạo-tràng, dầu sợi lông cũng có thể trùm khắp thập phương quốc-độ.

27. PHẬT HlỂN-MINH tánh thay không phân.

Ngài A-Nan bạch Phật:

-Bạch Đức Thế-Tôn! Nếu thật tánh kiến-tinh trùm khắp Chơn- Tánh nhiệm-mầu của tôi, Chơn-Tánh nhiệm-mầu ấy ở trước mặt tôi, thì Kiến-tinh là Chơn-Tánh của tôi rồi, thế thì Tâm phân-biệt trong thân tôi là vật chi?

Nay Tâm trong thân có phân-biệt, còn tánh kiến-tinh trùm khắp kia lại không có phân-biệt. Nếu thật Tâm tôi làm cho tôi thấy và tánh thấy của tôi, thì thân này không phải là tôi, như thế đồng với lý “vật hay thấy tôi” mà trước đây Đức Thế-Tôn đã cho là không đúng. Tôi chưa hiểu được, cung-thỉnh Đức Thế-Tôn khai-thị cho.

28. Đức Phật dạy:

-A-Nan! Ông vừa nói kiến-tinh ở trước mặt ông thì không đúng. Nếu kiến-tinh ở trước mặt ông thì kiến-tinh ấy có sắc-tướng tức là có chỗ chỉ được. Hiện giờ ông với Như-Lai ngồi giữa rừng cây Kỳ-Đà nầy, trông thấy rừng, cho tới các điện-đường, phía trên có nhựt-nguyệt, phía trước có sông Hằng, lại đối-diện với tòa sư- tử của Ta, vậy ông hãy lấy tay chỉ ngay các sắc- tướng, nào bóng cây là rừng, nào chỗ sáng là mặt trời, nào chỗ trở-ngại là vách, chỗ nào trống-rỗng là hư-không cho tới các thứ cây cỏ nhỏ-nhen, dầu lớn nhỏ khác nhau nhưng đã có sắc-tướng thì chỉ ra được. Còn như kiến-tinh, nếu ở trước mặt ông thì ông cứ lấy tay chỉ rõ cái nào là kiến-tinh?

A-Nan! Ông phải biết: Như ông chỉ hư-không là kiến-tinh thì hư-không thành kiến-tinh, còn cái gì là hư-không? Nếu ông chỉ kiến-tinh thì vật thành kiến-tinh, còn cái gì là vật? Ông phải phân- tách kỷ-càng trong các vật-tượng để chỉ kiến-tinh sáng-suốt, thanh- tịnh, nhiệm-mầu như các hình-sắc rõ-ràng cho Ta xem.

29. Ngài A-Nan bạch Phật:

-Bạch ĐứcThế-Tôn! Nay tôi xem giảng-đường này, sông Hằng ở ngoài xa, hai vầng nhựt-nguyệt ở trên, lấy tay chỉ ngay chỗ nào, đưa mắt trông vào chỗ ấy, toàn là vật chớ không phải kiến-tinh. Như lời Đức Thế-Tôn đã dạy, tôi là bậc Thinh-Văn sơ-học hữu-lậu cho đến các bậc Bồ-Tát cũng không thế nào phân-tách các vật- tượng để ra kiến-tinh có Tự-Tánh lìa tất cả vật.

Đức Phật khen:

-Thật đúng như vậy.

30. Đức Phật lại bảo Ngài A-Nan:

-A-Nan! Thể theo lời nói của ông, kiến-tinh ly các tướng thì không có Tự-Tánh riêng, nên những cái mà ông đã chỉ là vật chớ không phải tánh thấy.

Bây giờ Ta bảo ông: Ông với Như-Lai ngồi ở rừng Kỳ-Đà này, hãy xem lại rừng và vườn cho tới hai vầng nhựt-nguyệt, tuy các vật-tượng khác nhau, nhưng trong các vật-tượng chắc-chắn không có kiến-tinh để cho ông chỉ. Vậy ông nên phát-minh trong các vật-tượng ấy, xem thử cái nào là chẳng có kiến-tinh.

31. Ngài A-Nan bạch Phật:

-Bạch Đức Thế-Tôn! Tôi xem khắp rừng Kỳ-Đà này, tôi thật chưa biết cái nào là chẳng phải kiến-tinh. VI cớ sao? Vì nếu nói cây chẳng phải kiến-tinh, thì không làm sao thấy cây. Nếu nói cây là kiến-tinh, thì không có tên cây. Chí như hư-không, nếu nói hư-không chẳng có kiến-tinh, thì không làm sao thấy hư-không. Nếu nói hư-không là kiến-tinh thì không có tên hư-không.

Tôi suy-xét kỹ-càng và phát-minh rõ-ràng trong các vật-tượng không có cái chi là chẳng có kiến-tinh.

Đức Phật khen:

-Thật đúng như vậy.

32. Lúc bấy giờ trong Đại-chúng, những người hữu-học nghe Như- Lai dạy như thế, đều bối-rối, không hiểu nghĩa-lý trước sau thể nào, nên lo sỢ đến nỗi mất sở thủ (l5).

33. Đức Phật cảm thấy Đại-chúng lo-sỢ nên động lòng thương-xót và để an-ủi ngài A-Nan và Đại-chúng, Đức Phật bảo:

-ChưThiện-Nam tử! Phật là bậc Pháp-Vương cao-cả thuyết toàn chơn-thiệt ngữ, khế-hiệp Chơn-Như, không sai-lạc, không lừa-đối, chẳng phải như phái ngoại-đạo Mạt-Già-Lê bày ra bôn thứ nghị-luận bất-tử mê-tín, loạn-động nguy-hại. Vậy các ông phải bình-tâm suy-xét kỷ-càng, đừng bỏ mất sự ái-mộ.

34. Tức thời ngài Văn-Thù Sư-Lợi Pháp-Vương Tử, vì cảm-mến Tứ-chúng nên đứng dậy đảnh lễ, hiệp-chưởng cung-kính bạch Phật:

35. Bạch Đức Thế-Tôn! Đại-chúng chưa hiểu được nghĩa “phải” và “không phải” của hai thứ “kiến-tinh” và “sắc-không”.

Bạch Đức Thế-Tôn! Nếu sắc và không là tánh thấy thì phải có chỗ chỉ được, nhưng vì sao chỉ không được? Nếu sắc và không chẳng phải tánh thấy thì phải không có chỗ thấy, lẽ nào lại thấy được? Hiện giờ Đại-chúng chưa hiểu nghĩa ấy nên sanh lòng lo- sỢ, chớ không phải căn-lành kém-thiếu. cầu xin Đức Thế-Tôn đại-từ đại-bi phát-minh rành-rẽ các vật-tượng, cho tới kiến-tinh gốc là cái gì mà ở giữa nghĩa “phải” và chẳng phải”.

36. Đức Phật bảo ngài Văn-Thù và Đại-chúng:

-Vì các ông chưa đắc Viên-Định nên còn phân phải, phân chẳng phải. Chí nhưThập-phương Như-Lai và Đại Bồ-Tát thường an-trụ trong cảnh Viên-ĐỊnh thì không còn phân-biệt như thế. Kiến- tinh và kiến-duyên(16), cho tới tâm-tướng thân-tướng đều nhưhoa- đốm giữa hư-không, vốn không thiệt có. Kiến-tinh và kiến-duyên nguyên là thể Bồ-Đề nhiệm-mầu, trong-sáng và vắng-lặng thì có chi là “phải” với “chẳng phải”.

Văn Thù! Ta hỏi ông: Ông nguyên là Văn-Thù. Ví như thêm một Văn-Thù nữa, có phải thật là Văn-Thù không? Hay là chẳng phải Văn-Thù?

37. Bạch Đức Thế-Tôn! Tôi đây chính là Văn-Thù. Không thếnào có được một Văn-Thù nào khác. Vì cớ sao? Nếu thêm một Văn- Thù thành ra hai Văn-Thù. Tôi nguyên là Văn-Thù thì chẳng được gọi là không phải Văn-Thù, nên ở trong ấy thiệt không có hai tướng “phải” và “chẳng phải”.

38. Văn-Thù! Tánh thấy diệu-minh và các sắc trần, hư-không gốc ở Chơn-Như Tâm thanh-tịnh, châu-viên, mầu-nhiệm sáng-suốt, giác-ngộ cao-cẳ. Vì vọng sanh ra sắc-không và tánh thấy nghe mà thôi. Ví như mặt trăng thứ hai, không có lý-do nào vịnh theo mặt trăng thứ hai mà nói phải mặt trăng hoặc chẳng phải mặt trăng.

Văn-Thù! Mặt trăng chi’ có một, thì không có cái gì phải hay chẳng phải trăng.

Tam Chơn-Như thường-trụ cũng như mặt trăng, chỉ có một. Nếu do kiến-tinh và sắc-trần mà phát-minh, đó là vọng-tưởng nên mới có nghị-luận phân-vân “phải” và “chẳng phải”.

Nếu do Tánh chơn-thiệt thanh-tịnh, sáng-suốt, diệu-giác mà phát minh thì không còn chi gọi là “phải” và chẳng phải”.

Lại như tỏ-ngộ lý nhứt-chơn nói trên thì các sự hồ-nghi dứt tuyệt, tự-nhiên thoát khỏi nạn nghị-luận “chỉ được” và “không chỉ được”

39. PHẬT HlỂN-MINH tánh thay không chấp.

Ngài A-Nan bạch Phật:

-Bạch Đức Thế-Tôn! Như lời Đức Pháp-Vương đã nói, tánh thây giác-duyên trùm khắp thập-phương thê-giới, vắng-lặng thường-trụ, bất-sanh bất-diệt. Đối với thuyết “minh-đế” của ngoại- đạo Ta-Tỳ-Ca-La Tiên Phạm-Chí và thuyết “thần-ngã” biến mãn thập-phương của ngoại-đạo Đầu-Khôi có sai-biệt chăng?

Khi trước Đức Thế-Tôn ở tại núi Lăng-Già từng dạy cho đoàn- thể của Ngài Đại-Huệ nghe: các ngoại-đạo hay nói nghĩa “tự nhiên”, cho rằng không có nhân-quả, không lập pháp tu, Như-Lai lại nói nghĩa “nhân-duyên” tương-khắc.

Nay tôi xem xét tánh thấy giác duyên bất sanh bất diệt, xa lìa các tướng hư-vọng điên-đảo thì không có nghĩa “nhân-duyên mà có nghĩa tự nhiên”. Nếu không có nghĩa nhân-duyên tất phải trái- nghịch với Phật-giáo. Nếu có nghĩa tự-nhiên tất phải lầm-lạc vào tà-thuyết. Cung thỉnh Đức Thế-Tôn khai-thị thế nào cho tất cả Đại-chúng khỏi vướng tà-thuyết và được Tâm chơn-thiệt thường- trụ, Tánh diệu-minh giác-ngộ.

40. – A-Nan Nay Như-Lai dùng phương-tiện khai-thị, lấy lời chơn- thiệt dạy ông như vậy mà ông chưa tỏ-ngộ, lại còn lầm thuyết “tự nhiên” của ngoại-đạo.

A-Nan! Nếu ông chấp tánh thấy mầu-nhiệm sáng-suốt ấy là tự-nhiên thì hãy biện-minh thể tự-nhiên cho rõ-ràng.

Ông nghiệm-xét trong tánh thấy ấy, lấy chi làm tự? Lấy sáng làm tự hay lấy tối làm tự? Lấy trống không làm tự hay là lấy ngăn- trở làm tự?

A-Nan! Nếu lấy sáng làm tự thì chẳng thấy tối. Nếu lấy trống không làm tự thì chẳng thấy ngăn-trở.

A-Nan! Lại như lấy tướng tối làm tự thì đến khi sáng, tánh thấy đã mất rồi, làm sao lại còn thấy sáng?

41. Ngài A-Nan bạch Phật:

– Bạch Đức Thế-Tôn! Đức Thế-Tôn dạy như vậy, thì chắc- chắn tánh thấy nhiệm-mầu sáng suốt không phải là “tự-nhiên”. Nay tôi phát minh tánh thấy ấy có nhân-duyên sanh, nhưng lòng tôi chưa hiểu minh-bạch, xin hỏi: Thế nào là nghĩa hiệp với nhân- duyên tánh? Ngưỡng cầu Đức Như-Lai dạy cho.

42. Đức Phật dạy:

-A-Nan! Ông đã nói về nhân-duyên tánh thì hãy nghe ta hỏi đây: Ông vì nhân-duyên mà thây tướng sáng, tối, trống-không, ngăn-trở, nên mới có tánh thấy hiện-tiền. Vậy tánh thấy nhân tướng nào: hoặc sáng hoặc tối hoặc trống-không hoặc ngăn-trở mà thấy?

A-Nan! Nếu nhân tướng sáng mà thấy thì không thể thấy tôi.

Nếu nhân tướng tối mà thấy thì không thể thấy sáng. Cho đến nhân tướng trống-không hoặc tướng ngăn-trở đều giống nghĩa như nhân tướng sáng hoặc tướng tối.

43. A-Nan! Lại nhưtánh thấy duyên theo sáng mà thấy, hoặc duyên theo tối mà thây, hoặc duyên theo trống-không mà thấy, hoặc duyên theo ngăn-trở mà thấy?

A-Nan! Nếu duyên theo trống-không mà thấy thì đáng-lý chẳng thấy ngăn-trở. Nếu duyên theo ngăn-trở mà thấy thì đáng-lý chẳng thấy trống-không; cho đến duyên theo sáng hoặc tối thì đồng nghĩa như trên.

Nên nhận-ãịnh: Tánh thấy diệu-minh giác-ngộ thanh-tịnh, không thuộc nhân-duyên hoặc chẳng nhân-duyên, không thuộc tự-nhiên hoặc chẳng tự-nhiên, không có lý “không” và “chẳng-không”, cũng không có lý “phải” và “chẳng phải”.

Nguyên tánh thấy ấy ly tất cả tướng, tức tất cả pháp. Tại sao ông ở trong tánh ấy lại manh tâm dùng nghĩa “tự-nhiên” và “nhân- duyên”, lấy lời hý-luận về các danh-tướng thế-gian mà phân-biệt? Ông vọng-chấp như vậy chẳng khác nào lấy tay nắm hư-không, thì hư-không chẳng bao giờ nắm được, chỉ là việc làm phí công.

44. PHẬT HlỂN-MINH CHƠN-KIẾN LY VỌNG KIẾN

Ngài A-Nan bạch Phật:

-Bạch Đức Thế-Tôn! Nếu chắc-chắn tánh diệu-minh giác- ngộ không phải nhân-duyên thì tại sao Đức Thế-Tôn thường dạy các vị tỳ-khưu biết bôn thứ nhân-duyên như nhân-duyên ở chỗ trông-không, ở chỗ sáng, ở tâm và ở mắt đó nghĩa là thế nào?

45. Phật dạy:

-A-Nan! Như-Lai nói các tướng nhân-duyên ở thế-gian, không phải là đệ-nhứt liễu-nghĩa(17) mà chỉ là quyền-thuyết đối-trị nghĩa tự-nhiên.

A-Nan! Như-Lai lại hỏi ông: Người thế-gian nói mình hay thấy, vậy tánh thấy ấy nhân tướng gì mà gọi là thấy hoặc không thấy?

46. – Bạch Đức Thế-Tôn! Người thế-gian nhân ánh-sáng của mặt trời, mặt trăng hoặc đèn-đuốc mà thấy các hình-sắc nên gọi là thấy. Nếu không có ba thứ ánh-sáng đó thì không thể thấy

– A-Nan! Nếu khi không có ánh-sáng gọi là không thấy thì đáng lý phải không thấy tối, nhưng dầu không có ánh-sáng, vẫn thấy tối, như vậy là tại không có ánh-sáng, chớ chẳng không thấy. Tại sao lại gọi là không thấy?

A-Nan! Ví-dụ như ban đêm, ở chỗ tối, không có ánh-sáng thì gọi là không thấy. Còn như ban ngày ở chỗ sáng, không có bóng tối thì cũng phải gọi là không thấy. Như thế ở chỗ sáng hoặc tối đều gọi là không thấy, có lý như vậy chăng?

Hai tướng sáng và tối tương-phản nhau. Hễ sáng đến thì tướng tối tiêu, hễ tướng tối đến thì tướng sáng phải tiêu. Ở chỗ sáng hoặc ở chỗ tôi, lúc nào cũng có tánh thấy. Như vậy ở hai nơi ấy phải gọi là có thấy, cớ sao lại gọi là không thấy.

47. A-Nan! Vì cớ ấy, ông cần biết bôn nghĩa như sau: khi thấy sáng, tánh thấy không phải là sáng. Khi thấy tối, tánh thấy không phải là tối. Khi thấy trống-không, tánh thấy không phải là trống- không. Khi thấy ngăn-trở, tánh thấy chẳng phải là ngăn-trở.

Bốn nghĩa đã được hiểu rõ xong, ông lại phải biết tánh thấy chơn hay thấy được tánh thấy vọng, tánh thấy chơn không phải là tánh thấy vọng, vì tánh thấy chơn còn phải xa lìa tánh thấy vọng, khiến tánh thấy vọng không thể sánh được, huống chi các tướng nhân-duyên tự-nhiên và hòa-hiệp có sánh được chăng?

Các ông ở bậc Thinh-Văn còn hẹp-lượng, chưa thông-đạt “thanh-tịnh thiệt tướng”.

Nay Như-Lai dạy bảo các ông phải suy-xét tinh-tường không được lười-biếng trên đường tiến lên quả-vị Vô-Thượng Bồ-Đề.

48. Ngài A-Nan bạch Phật:

-Bạch Đức Thế-Tôn! Đức Thế-Tôn vì chúng tôi lầm-lạc mà thuyết nghĩa nhân-duyên, tự-nhiên, hòa-hiệp và bất hòa-hiệp, tâm chúng tôi nghe qua chưa hiểu-rõ, Đức Thế-Tôn lại thuyết thêm lý “chơn-kiến thấy vọng-kiến” và “chơn-kiến không phải là vọng- kiến” khiến tâm chúng tôi thêm bối-rối. Đức Thế-Tôn dũ lòng từ- bi cao-cả khai-thị tâm giác-ngộ sáng-suốt…

Bạch Phật xong, ngài A-Nan đảnh-lễ rồi lặng-thinh để vâng lãnh lời giáo-huấn.

49. Lúc bấy giờ Đức Phật thương-xót ngài A-Nan và Đại-chúng muôn giảng-dạy môn Đại-đà-ra-ni (18) là đường tu-hành huyền- diệu theo các phép chánh-định, nên Đức Phật bảo ngài A-Nan:

-Ông tuy có tài nhớ giỏi nhưng chỉ lợi-ích về phần đa-văn chớ chỗ vi-mật quán-chiếu đại-định, tâm ông chưa hiểu rõ. Vậy ông hãy chăm chỉ nghe Ta khai-thị cho ông và cũng làm cho hạng hữu- lậu đời sau đắc quả Bồ-Đề.

– A-Nan! Tất cả chúng-sanh luân-hồi sanh-tử ở thế-gian đều tại hai vọng-kiến, hễ hai món ấy phát-sanh hoặc-nghiệp ở chỗ nào thì thọ báo ở chỗ ấy. Thế nào là hai vọng-kiến?

  1. Vọng-kiến biệt-nghiệp của chúng-sanh.
  2. Vọng kiến đồng-phận của chúng-sanh.

50. Thế nào là vọng-kiến biệt-nghiệp?

A-Nan! Như người thế-gian có mắt nhặm đỏ, ban đêm trông thấy ngọn đèn có bóng tròn năm sắc bao-phủ. Ý ông nghĩ sao? Ban đêm thâp đèn hiện ra bóng tròn, vậy bóng tròn ấy là sắc của đèn hay là sắc của tánh thấy?

A-Nan! Nếu nói bóng tròn là sắc của đèn thì tại sao người không mắc bịnh nhăm lại không thấy, mà chỉ có người bị bịnh nhăm mới thấy như vậy?

Nếu nói bóng tròn là sắc của tánh thấy thì tánh thấy hóa thành sắc, như vậy bóng tròn của người bịnh nhặm gọi là gì?

A-Nan! Lại nếu bóng tròn lìa đèn mà riêng có, thì bốn khía cạnh có những bình-phong, trướng, bàn ghế đều hiện ra bóng tròn hay sao? Nếu bóng tròn lìa tánh thấy mà riêng có thì không cần mắt cũng thấy được, tại sao chỉ mắt nhặm mới thấy bóng tròn?

A-Nan! Bóng tròn không phải ở nơi đèn và tánh thấy mà sanh ra, cũng không phải lìa đèn và tánh thấy mà có, vậy bóng tròn do chỗ nào hiện ra?

Vì cớ ấy, phải biết: đồn chỉ có ánh-sáng chớ không có bóng tròn. Bởi mắt nhăm mới sanh ra bóng tròn, chớ đèn và tánh thấy không có quan-hệ chi cả. Các ông đừng nói bóng tròn phát khởi do đèn hay tánh thấy, hoặc chẳng phải đèn, chẳng phải tánh thấy.

Ví như mặt trăng thứ hai không phải là thể hoặc bóng của mặt trăng thiệt. Vì cớ sao? Vì mặt trăng thứ hai do dụi mắt mà có, chớ không thiệt có, các ông có trí-huệ không nên nói đó là hình mặt trăng hay chẳng phải hình mặt trăng, cũng không nên nói ly tánh thấy hoặc chẳng phải ly tánh thấy mà có. Đã quyết bóng tròn sanh ra do mắt có bịnh nhăm thì còn nói chi là đèn, là tánh thấy, hoặc chẳng phải đèn, chẳng phải tánh thấy. Đó là nghĩa vọng kiến biệt-nghiệp.

51. Thế nào là vọng-kiến đồng-phận?

A-Nan! Ớ cõi Diêm-phú-đề này, trừ đại-hải ra, phần đất bình- nguyên có 3.000 châu, ở giữa là đại-châu bao-quát từ Đông sang Tây có 2.300 đại-quốc, kỳ-dư các châu nhỏ ở giữa các biển có hoặc 200 nước hoặc 300 nước hoặc 10 nước hoặc 20 nước cho đến 30, 40, 50 nước. Giữa các châu nhỏ, có một châu gồm 2 nước chung nhau, chúng-sanh ở cảnh-giới ây đồng cảm một thứ ác- duyên nên gặp nhiều điều bất-lương, thấy nhiều hình-tượng không lành như: quầng đỏ xung-quanh nhựt-nguyệt, nhựt thực nguyệt thực, các bớt đen ở nhựt nguyệt, sao phướng, sao chổi, sao băng, móng nỗi, hắc khí ám nhựt nguyệt, có khi ngày đêm không thấy nhựt-nguyệt nhiều thứ ác-tượng biến-hiện, nhưng chỉ có chúng- sanh ỡ nước ấy nghe thây mà thôi, chớ chúng-sanh ở các nước khác không nghe thấy như vậy. Đó là nghĩa vọng-kiến đồng-phận.

52. A-Nan! Nay Ta vì ông, lấy hai vọng-kiến tiến-thối so-sánh cho minh-bạch.

A-Nan! Như vọng-kiến biệt nghiệp của chúng-sanh thấy nơi ánh-sáng đèn hiện ra bóng tròn, tuy hình như có tiền-cảnh, nhưng tánh thấy ấy vôn là do mắt bị bịnh nhăm sanh ra.

Vì bịnh nhăm vọng-phát tướng lao, chớ không phải vì sắc-trần sở-tạo, nhưng tánh thây do bịnh mắt ấy tức là bịnh thấy, không có lỗi vọng-kiến.

Lấy đó so-sánh thì hiện-tiền ông thấy núi-sông, quôc-độ và chúng-sanh là do bịnh thấy từ vô-thỉ nhẫn nay tạo ra. Tánh thấy của ông là căn, các sở duyên của ông thấy là cảnh. Tuy căn và cảnh hình như có, nhưng thật ra không có, vì kiến và tướng vôn là thể của Bổn-giác Minh-Tâm của ông. Vọng-giác vọng-kiến đồng với bịnh nhăm mắt. Chỉ có chân giác chân kiến không phải là bịnh nhặm mắt, thếnên chơn-kiến thấy vọng-kiến, chơn-kiến không phải là vọng-kiến. Như vậy làm sao còn gọi là kiến-văn giác-tri?

A-Nan! Vì cớ ấy, nay ông thấy ông, thấy Như-Lai và thập-loại chúng-sanh ở thế-gian, tánh thấy đó có năng có sở là tánh thấy trong mắt bịnh, chớ không phải tánh thây soi được bịnh. Tánh thấy soi được bịnh, gốc không nhiễm các sắc-tướng thế-gian, chẳng được gọi là tánh thấy trong mắt bịnh.

53. A-Nan! Nhưchúng-sanh đồng-phận vọng-kiến so-sánh với một người biệt-nghiệp vọng-kiến thì người bị bịnh mắt nhặm vì hư- vọng mà thấy bóng tròn giống như chúng-sanh đồng-phận vọng- kiến trong nước có ác-tướng kia, vì đồng-phận gây ác-nghiệp mà thấy các ác-tướng, chỗ sở-do là bịnh vọng-kiến tạo-thành từ vô- thỉ.

Ví như cõi Diêm-phù-đề có 3.000 châu, 4 đại-hải, thế-giổi Ta bà cho tới các thập-phương quốc-độ hữu lậu và tất cả chúng-sanh gốc đồng Tâm giác-ngộ, huyền-diệu, sáng-suốt, vô-lậu, nhưng vì một niệm bất-giác lúc tối sơ mà có hoặc vô-minh. Do hoặc nầy mà có kiến văn giác tri, do bôn món này mà tạo vọng-nghiệp và nghiệp này phát sanh các thứ tập-khí hư-vọng, bịnh-duyên giả- dối, hòa-hiệp thì vọng-sanh, bất hòa-hiệp thì vọng-tử.

Nếu dùng pháp-môn vi-mật quán-chiếu mà xa lìa các bịnh- duyên hòa-hiệp và bất hòa-hiệp tất diệt-trừ cội-gốc sanh-tử, viên- mãn Bồ-Đề tánh bất sanh-diệt, Bổn-Tâm thanh-tịnh, Bổn-giác thường-trụ.

54. Như ông tuy đã ngộ tánh bổn-giác diệu-minh chẳng phải nhân- duyên hay tự-nhiên, nhưng ông chưa ngộ lý giác-nguyên chẳng phải hòa-hiệp hoặc bất hòa-hiệp mà sanh.

A-Nan! Nay Ta lại lấy chỗ tiền-trần mà hỏi ông: Nếu hiện giờ ông lấy tánh nhân-duyên hòa-hiệp theo các vọng-tưởng thế-gian mà tự mình lầm-lạc và nghi-ngờ tâm chứng Bồ-Đề cũng do hòa- hiệp mà sanh, như vậy tánh thấy diệu-tịnh của ông hòa với tướng sáng, hoặc tướng tối, hoặc chỗ trống-không, hoặc chỗ ngăn-trở?

Nếu tánh thấy diệu-tịnh hòa với tướng sáng thì hiện-tiền khi ông thấy sáng, tánh thấy ấy xen vào chỗ nào? Nếu phân-tách tánh thấy và tướng sáng ra làm hai thứ riêng-biệt thì có thể biết rõ- ràng, nhưng nếu tánh thấy xen với tướng sáng thì trong khi xen nhau, hình-tượng thế nào?

Nếu tướng sáng không phải là tánh thấy thì làm sao thấy sáng? Nếu tướng sáng là tánh thấy thì làm sao thấy được chỗ thấy?

Lại nếu tánh thấy viên-mãn, thì còn chỗ nào hòa với tướng sáng? Nếu tướng viên mãn thì còn chỗ nào hòa với tánh thấy?

Tánh thấy thuộc tâm, tướng sáng thuộc cảnh. Nếu hai thứ hòa nhau thì tánh thấy bị tướng sáng xen vào, không còn gọi là thấy, tướng sáng bị tánh thấy xen vào, không còn gọi là sáng. Đó là chứng-tỏ: Nếu hai thứ hòa nhau thì cả hai đều mất tánh-cách. Khi đã hiểu tánh thấy không hòa được với tướng sáng thì biết tánh thây cũng không hòa được với các tướng khác như: tối, trống- không, ngăn-trỡ.

55. A-Nan! Lại như vầy nữa: Tánh thấy diệu-tịnhcủa ông hiệp với tướng sáng, hoặc tối, hoặc trống-không, hoặc ngăn-trở? Nếu nói tánh thấy hiệp với tướng sáng thì đến khi tối tướng sáng đã diệt rồi, tánh thấy cũng theo tướng sáng mà diệt luôn. Tánh thấy cũng không thể hiệp với tướng tối, vì không làm sao thấy được tướng tối. Khi tánh thấy không hiệp với tướng tối thì nếu hiệp với tướng sáng, cũng không thể thấy được tướng sáng. Nếu không thể thây được tướng sáng thì làm sao hiệp với tướng sáng? Như vậy tánh thây không thể hiệp với tướng sáng, cho đến với các tướng: tối, trông-không, ngăn-trở, cũng bất thành.

56. Ngài A-Nan bạch Phật:

-Bạch Đức Thế-Tôn! Theo tôi suy-nghiệm, tánh thấy giác- nguyên mầu-nhiệm đốì với các duyên-trần và lòng lo-nghĩ chắc không hòa-hiệp?

57. Đức Phật dạy:

-Như ông vừa nói, tánh thấy giác-nguyên mầu-nhiệm không hòa-hiệp thì Ta lại hỏi ông:

Tánh thấy ấy không hòa với tướng sáng, hoặc tối, hoặc trống- không, hoặc ngăn-trở? Nếu tánh thấy ấy không hòa với tướng sáng thì hai món ấy phải có giới-hạn. Ông hãy nghiệm-xét chỗ nào là tánh thấy, chỗ nào là tướng sáng trong hai chỗ, lấy chỗ nào làm giới-hạn?

A-Nan! Vì hai món ấy không gặp nhau được, nên nếu ở bên tướng sáng thì không có tánh thấy. Tự ông đã chẳng biết tướng sáng ở chỗ nào thì làm sao lập giới hạn?

Đó là chứng-tỏ tánh thấy không hòa được với tướng sáng, cho tới đối với các tướng: tối, trống-không, ngăn-trở, cũng đồng nghĩa như vậy.

58. Lại như nói tánh thấy giác-nguyên mầu-nhiệm không hiệp thì không hiệp với tướng sáng, hoặc tối, hoặc trống-không, hoặc ngăn- trỏ? Tánh thấy với tướng sáng không hiệp nhau được. Nếu hai món ây không hiệp được thì trái-nghịch nhau, cũng như tánh nghe với tướng sáng không can-hệ gì với nhau.

Như thế tánh thấy chẳng biết tướng sáng ở chỗ nào, còn làm sao phát-minh được lý hiệp và không hiệp?

Đó là chứng-tỏ tánh thấy không thể hiệp được với tướng sáng, cũng như với các tướng: tối, trống-không và ngăn-trở.

59. PHẬT HIỂN-MINH 4 THỨ: AM NHẬP XỨ GIỚI.

Phật bảo ngài A-Nan:

-A-Nan! Ông còn chưa biết tất cả tướng huyễn-hóa phù-trần, sanh ra chỗ nào thì tùy theo chỗ ây mà tiêu-diệt. Các thứ huyễn- hóa hư-vọng, là tướng, nhưng tánh vốn là thể giác-ngộ sáng-suốt nhiệm-mầu cho tới ngũ-ấm <l9), lục nhập (20), thập nhị xứ (2I), và thập bát giới(22) cũng như vậy. Khi nhân-duyên hòa-hiệp thì hư- vọng phát sanh và khi nhân-duyên ly-tán thì hư-vọng tiêu-diệt.

60. A-Nan! Ông chưa biết dầu sanh dầu diệt, dầu tới dầu lui, vốn thiệt là tánh Chbn-Như bất-dộng, huyền-diệu, quang-minh, châu- viên, thường-trụ của Như-Lai-Tạng (23). Khi biết được tánh Chơn- thường như vậy rồi thì ở trong tánh Chơn-thường dầu có muốn tìm các pháp sanh-tử, mê-ngộ, khứ-lai, kết-cuộc cũng không thể được.

61. PHẬT HIỂN-MINH NGŨ-ẤM

Đức Phật hỏi ngài A-Nan:

-Năm ấm sắc thọ tưởng hành thức vì sao lại nói gốc là Tánh Chơn-Như mầu-nhiệm của Như-Lai-Tạng?

62. HIỂN-MINH SẮC-ẤM

Đức phật bảo:

-A-Nan! Giả-sử như có người dùng mắt thanh-tịnh trông lên hư-không, chỉ thấy toàn một vẻ trong-sáng rỗng-suốt, chớ chẳng có vật nào ngăn-ngại. Người ấy chăm chỉ ngó, không nháy mắt, qua một hồi lâu, mắt sanh mõi-mệt thì thấy ở hư-không có nhiều hoa-đốm biến-tướng lăng-xăng rộn-ràng. Nên biết sắc-ấm cũng như thế.

A-Nan! Những hoa-đốm biến-tưứng ây không phải do hư-không hoặc nhãn-căn mà hiện ra.

63. A-Nan! Nếu hoa-đốm biến-tướng sanh ra do hư-không, dĩ-nhiên phải trở lại với hư-khỗng. Nếu hư-không có vật-tượng ra vào thì chẳng phải là hư-không mà là hình-thể. Đã là hình-thể thì chẳng làm sao dung-nạp được hoa đốm, biến tướng sanh diệt cũng như thân thể của ông A-Nan không thể nào dung nạp được thêm một ông A-Nan nữa.

64. Nếu hoa-đốm biến-tướng sanh bởi nhãn-căn, dĩ nhiên phải trở lại với nhãn-căn. Nếu hoa-đốm biến-tướng từ nhãn-căn phát ra thì phải có tánh thấy. Nếu có tánh thấy thì khi hiện ra làm hoa- đốm biến-tướng ở hư-không, đến khi trở về, đáng-lý phải thấy nhãn-căn, nhưng cớ sao lại không thấy nhãn-căn?

Nếu không thấy nhãn-căn thì hoa-đốm biến-tướng hiện giữa hư-không đến khi trở về, đáng-lý phải che tối nhãn-căn, nhưng cớ sao lại không che tối nhãn-căn? Đó là chứng-tỏ mắt thanh-tịnh, dầu có hoa đốm biến-tướng hiện giữa hư-không, cũng là mắt thanh- tịnh, chẳng phải chỉ khi hư-không trong-sáng rỗng-suốt mới gọi là mắt thanh-tịnh.

Thể theo lý ấy, nên nhận-định: sắc-ấm luống-dôi tức là hư-vọng, vốn không phải nhân-duỵên hoặc tự-nhiên.

65. HlỂN-MINH THỌ-ẤM

Đức Phật dạy A-Nan:

– Ví như có người tay-chân mạnh-khỏe, thân-thể tráng-kiện, quên mình đang sống thung-dung, không thuận không nghịch, bỗng- nhiên dùng hai bàn tay xoa lẫn nhau ở hư-không thì vọng-phát các tướng : trơn, rít, lạnh, nóng. Nên biết thọ-ấm cũng như thế.

66. A-Nan! Các tưđng trơn, rít, lạnh, nóng ấy chẳng phải do hư- không hoặc bàn tay mà có.

A-Nan! Nếu các tướng trơn, rít, lạnh, nóng sanh ra do hư-không thì cảm-xúc được bàn tay, cũng có thể cảm-xúc được thân-thể, không lý nào hư-không lại chỉ lựa bàn tay làm chỗ cảm-xúc.

Nếu các tướng trơn, rít, lạnh, nóng do bàn tay mà có thì lúc nào cũng cảm-xúc được, cần chi đợi khi hai bàn tay xoa lẫn nhau mới có.

Lại nếu tự bàn tay sanh ra các tướng trơn rít lạnh nóng thì khi xoa lẫn nhau biết có cảm-xúc, đến khi xả ra cũng phải có cảm- xúc, cho tới xương-tủy ở bàn tay cũng phải biết cảm-xúc ra vào chỗ nào, cớ sao lại không biết? Giả sử bàn tay và xương-tủy đều biết cảm-xúc khi ra khi vào, thành ra có một vật-tượng cảm-xúc đi qua đi lại mãi ở trong thân-thể, cớ sao lại đợi khi hai bàn tay xoa lẫn nhau mới biết cảm-xúc?

Thể theo lý ấy, nhận-âịnh: Thọ-ấm luống-dôí tức là hư-vọng, vốn không phãi nhân-duyên hoặc tự-nhiên.

67. HlỂN-MINH TƯỞNG-ẤM

Đức Phật dạy:

-A-Nan! Ví như có người cảm thấy nhiễu nước miếng khi nghe nói tới me chua và mỏi chân khi nghe nói tới việc leo dốc núi. Nên biết tưởng-ấm cũng như thế.

68. A-Nan! Tướng chua không phải do me, hoặc miệng hoặc tai mà có. A-Nan, nếu tướng chua do me mà có thì me tự nói được, cần gì đợi miệng nói. Nếu tướng chua do miệng mà có thì đáng- lẽ miệng phải tự nghe, cần gì đợi tai nghe. Lại nếu tướng chua ấy do tai nghe mà có thì cớ sao nước miếng không chảy nơi tai lại chảy miệng?

Nghiệm xét thì tướng chua chẳng phải do me sanh vì me không nói được, cũng chẳng phải do miệng sanh vì miệng không nghe được, lại chẳng phải do tai sanh vì tai không nhiễu nước miếng được. Thật sự, tướng chua ấy do tưởng-âm sanh. Còn vọng-tưởng leo dốc núi mà mỏi chân cũng tương-tợ như vậy.

Thể theo lý ấy, nên nhận-định: Tưởng-ấm luôhg-clối tức là hư- vọng, vốn không phải nhân-duyên hoặc tư-nhiên.

69. HIỂN-MINH HÀNH-ẤM

Đức Phật dạy:

-A-Nan! Ví như dòng nước chảy, sóng nhảy liên-tục, lớp trước lớp sau, cuồn-cuộn không ngừng. Nên biết hành-ấm cũng như thế.

A-Nan! Tánh-cách chảy của dòng nước như vậy chẳng phải tại hư-không, hoặc tại nước, hoặc tại bổn-tánh của nước, cũng chẳng phải ly ra ngoài hư-không và nước.

A-Nan! Nếu tánh-cách ấy do hư-không mà có thì cả hư-không vô-tận trong thập-phương đều thành dòng nước chảy vô-tận, như thế tất cả thế-giới phải bị chìm-đắm.

Nếu do nước mà có thì. tánh-cách ấy khác hẳn với nước, đáng- lý hai bên phải có thể riêng, cớ sao lại không có?

Nếu nói do bổn-tánh của nước mà có thì trong lúc nước đứng, không còn lấy chi gọi là bổn-tánh của nước được nữa.

Lại tánh-cách chảy của dòng nước ấy chẳng phải ly ra ngoài hư-không hoặc ra ngoài nước. Vì cớ sao? Vì ở thế-gian chẳng có chi ra ngoài hư-không được và nếu không có nước tất nhiên không có chảy.

Thể theo lý ấy, nên nhận-định: Hành-ấm luông-dôi tức là hư- vọng, vốn không phải nhân-duyên hoặc tự-nhiên.

70. HIỂN-MINH THỨC-ÂM

Đức Phật dạy:

– A-Nan! Ví như có người lấy một cái bình tần-già có hai lỗ, bít kín cả hai lỗ lại, vác nguyên một bình hư-không, đi đường xa thiên- lý để tặng nước khác.

Nên biết thức-ấm cũng như thế.

A-Nan! Nếu hư-không ở trong bình chẳng phải từ nước bên kia tới, cũng chẳng phải từ nước bên nầy vào.

A-Nan! Nếu hư-không trong bình từ nước bên kia mà tới, đáng lý phải thấy hư-không thiếu một phần, nhưng chẳng thiếu chút nào cả.

Lại nếu hư -không trong bình từ nước bên này mà vào thì khi khai hai lỗ bình, đáng lẽ hư không phát ra, nhưng không thấy xuất.

Thể theo lý ấy, nên nhận-định: Thức-ấm luống-dối tức là hư- vọng, vốn không phải nhân-duyên hoặc tự-nhiên.

1. Sát-Na (Ksana) : Khi tâm phát động gọi là niệm. Một niệm có 90 sát-na. Thế thì một sát-na là thời gian 1/90 của một niệm.

2. Kỳ-Bà-Thiên (Jiva): một vị Thiên-Thần ở cõi Đạo-Lợi Thiên.

3. Mạt-Già-Lê: nói đủ là Mạt-Già-Lê Câu-Xá-Lỵ Phất-Đa-La (Maskari Gosalaputra), cũng như Ca-Chiên-Diên và Tỳ-La-Đề Tử là ba nhà ngoại- đạo kỳ cựu ở Ấn-ĐỘ khi Phật tại thế.

4. Mẫu-đà-la (Mudra): ấm-Phật. Tay Mẩu-đà-la là tay dùng kiết-ấn Phật.

5. Chánh-biến-tri: Hiểu-biết hoàn-toàn chơn-tánh tất cả pháp, như đạt lý Tâm tức vạn pháp gọi là chánh-tri, đạt lý vạn pháp tức Tâm gọi là biến-tri, Phật đạt cả hai lý ấy nên gọi là Chánh-biến tri.

6. Tứ-đại: Bốn thể lớn, quan-trọng ở thế-gian: đất, nước, lửa, gió.

7. Ngũ-uẩn. Uẩn là chất-chứa các nghiệp hữu-vi. Ngũ-uẩn: sắc thọ tưởng hành thức.

8. Tâm phan-duyên: Tâm nương theo sắc-tướng mà phát hiện.

9. Vô-Thượng đạo: đạo cao-siêu tuyệt-đối, không có chi cao-siêu hơn.

10. Minh-đế, Lối chấp phi sắc phi không, nhận rằng thế-gian ban sơ mờ-mịt, không sắc tướng cũng chẳng phải không sắc-tướng lần lần tạo ra muôn vật

11. Mặt trăng thứ hai, chớ không phải bóng trăng: Mặt trăng chỉ có một nhưng nếu chớp mắt thì có thể thấy mặt trăng thứ hai. Tuy mặt trăng thứ hai không phải là thiệt, nhưng hình-thể thây được gần mặt trăng thiệt hơn là bóng trăng mờ ở dưới nước cách xa hơn.

“Kiến-tinh” tuy còn vọng, nhưng cao hơn tâm phan-duyên và gần Tâm Chơn-Như, nên Đức Phật dùng ví-dụ tánh thây đó như mặt trăng thứ hai.

12. Bổn-nhân: Nguyên-nhân phát-sanh. Ví-dụ như ăn no, nguyên-nhân nhờ có cơm, mặc ấm nguyên nhân nhờ có y-phục.

13. Thế-giới Diêm-phù-đề: Thế-giới Ta-bà là một thế-giới dẫy đầy các sự đau-khổ.

14. Trái A-ma-la ở trong tay. A-ma-la là một thứ trái nhỏ hình tròn ở Ấn-ĐỘ tương-tợ như trái táo ở Việt-Nam. Xưa ngài A-Na-Luật bị mù cả hai mắt, ngài gắng chí tu phép thiền-định trong một thời gian, chứng quả Vô-Lậu A-La-Hán và đắc Thiên-nhãn. Có người hỏi: “ Ngài thấy xa được không?” Trong khi ấy ngài đang cầm trái A-ma-la trong tay, ngài trả lời: Với Thiên-nhãn, tôi thấy cả thế-giới Diêm-phù-đề như trái A-ma-la trong tay.

15. SỞ-thủ: Bổn-phận bắt buộc phải giữ. Như trong thời-gian Đại-chúng nghe pháp, phải giữ tâm thanh-tịnh và thân trang-nghiêm.

16. Kiến-duyên: Các vật-tượng thấy được

17. Đệ nhứt liễu-nghĩa: Nghĩa cao-siêu, mầu-nhiệm, sáng-tỏ, rốt-ráo, không có nghĩa nào hơn.

18. Đại-đà-ra-ni: Đại là lớn, đà-ra-ni là tổng-trì. Đại-tổng-trì có nghĩa là bao-hàm các pháp vi-mật thâm-diệu và tất cả công-đức. Ví-dụ như môn trì chú-tâm Thủ-Lăng-Nghiêm gọi là môn đại đà-ra-ni.

19. Ngũ ấm: Âm nghĩa là che-tối. Ngũ ấm cũng gọi là Ngũ-uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành, thức. sắc-ấm: gồm có hai thứ:

  1. Nội-sắc tức là thân
  2. Ngoại-sắc tức là các vật-tượng trần-cảnh.

Thọ-ấm: gồm có các thứ thâu-nhận khổ-vui ở thế-gian Tưởng-ấm: gồm có các thứ vọng-tưởng khi đốì-đãi với tiền-trần ở thế-gian.

Hành-ấm: gồm có các hành-vi vọng động theo pháp thế-gian. Thức-ấm: gồm có các sự hiểu-biết, phân-biệtt ở thế-gian.

Năm ấm là năm thứ che-tối Tâm Chơn-Như

20. Lục-nhập: Sáu vật của nhân-thân: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý.

21. Thập nhị xứ: Mười hai chỗ gồm có lục căn và lục trần.

Lục-căn cũng gọi là lục-nhập: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ỷ. Lục-trần: sắc(các thứ thấy được), thinh (các thứ nghe được), hương (các thứ ngửi được), vị (các thứ nếm được), xúc (các thứ cảm-xúc được), và pháp (các thứ pháp-trần hiểu-biết hoặc tưởng tượng được).

22. Thập bát giới: 18 giới-hạn gồm có giới-hạn của 6 căn, 6 trần, và 6 thức.

Giới-hạn của 6 căn:

  1. Nhãn-giới
  2. Nhĩ-giới
  3. Tỹ-giới
  4. Thiệt-giới
  5. Thân-giới
  6. Ý-giới.

Giới-hạn của 6 trần:

  1. Sắc-giới
  2. Thinh-giới
  3. Hương-giới
  4. Vị-giới
  5. Xúc-giới
  6. Pháp-giới.

Giới-hạn của 6 thức:

  1. Nhãn-thức-giới
  2.  Nhĩ-thức-giới
  3. Tỷ-thức-giới
  4. Thiệt-thức-giới
  5. Thân-thức-giới
  6. Ý-thức-giới.

23. Như-Lại Tạng, Như – trạm-nhiên bất-động thường-trụ, đó là Bổn-giác Pháp-thân.Như-Lai-Tạng:

Lai: Từ-bi bạt-khổ dữ-lạc, đó là Thỉ-giác Báo-thân,

Bát-Nhã tự-tại vô-ngại, đó là Hậu-đắc trí Hóa-thân.

Thừa-Thiệt-Tánh Chơn-Như, viên-chứng chánh-giác, hóa-độ chúng- sanh tức là Như-Lai.

Tạng-, trùm-chứa, che-tối.

Như-LaiTạng bao-hàm cả tâm Phật và tâm phàm, tức là Tâm Chơn- Như giác-ngộ và tâm sanh-diệt mê-muội. Tầm Chơn-Nhưgiác-ngộ, giải- thoát sáng-suối nhưng thường bị che-tối. Tâm sanh-diệt mê-muội, gây hoặc tạo nghiệp, năng biểu-lộ, nhưng vốn không có tự-thể. Chính Tâm sanh-diệt hay che-tối Tâm Chơn-Như. Vì thế Đức Phật nói: các pháp sanh-diệt khứ-lai cũng ở trong Như-Lai Tạng.

24. Đoạn văn hiển-minh ngũ ấm:

Ngũ ấm là năm món chất-chứa các nghiệp hữu-vi và có năng-lực che-tối Tâm Chơn-Như. sắc-ấm bao-quát các sắc-pháp.

Thọ-ấm, Tưởng-ấm, Hành-ấm, Thức-ấm bao quát các tâm-pháp.

Nguyên căn-thân và tất cả vật-chất hữu-hình khiến cho người tham- luyến đó là sắc-ấm.

Lục-căn đối-đãi với lục-trần rồi tâm thâu-nhận gọi là Thọ-ấm.

Căn trần tiếp-xúc nhau rồi tâm vọng-tưởng gọi là Tưởng-ấm.

Đối với ngoại-cảnh, Tâm hành-động theo thế-gian gọi là Hành-ấm.

Cảm xúc với pháp-trần, Tâm hiểu-biết phân-biệt sự-vật gọi là Thức-ấm.

Tâm Chơn-Như ví như trăng sáng tỏ. Ngũ ấm ví như đám mây đen che-tối trăng. Dầu đám mây che-tối cách nào, thể trăng vẫn luôn luôn sáng-tỏ. Khi có gió thổi tan mây thì thể trăng hiện rõ. Đó là chứng- minh thể trăng duy-nhứt, nhưng trông-thấy trăng, có khi sáng có khi tối là tại không bị hoặc bị mây ám.

Chúng-sanh đồng một Tâm Chơn-Như giác-minh, huyền-diệu, châu- viên, thường-trụ, nhưng vì trong lúc tối-sơ, phát một niệm bất-giác mà sanh vô-minh, rồi bị ngũ-ấm che-tối Tâm Chơn-Như mà làm việc mê- muội, tạo-tác vọng-nghiệp, khiến phải chìm-đắm mãi ở biển-khổ luân- hồi sanh-tử. Tuy nhiên các thứ vọng không có tự-tánh tức là sanh-diệt, chỉ có chơn mới có tự-tánh tức là thường-trụ. Ví như vô-minh và ngũ- ấm sanh-diệt, chỉ có Tâm Chơn-Như thường-trụ.

Vì thế vọng chơn đều là tánh của Như-Lai Tạng.

Vọng tức chơn, phiền-não tức Bồ-Đề. Khi hết vọng thì hoàn chơn, khi dứt phiền-não thì chứng Bồ-đề. Tỏ-ngộ Tâm Chơn-Như tất nhiên giác, quên-mất Tâm Chơn-Như tất nhiên mê, giác làm Phật, mê làm chúng-sanh.

Cái giác cũng không phải tầm ở đâu xa mà ở ngay trong Như-Lai Tạng. Cái mê cũng không phải tầm ở đâu xa mà ở ngay trong Như-Lai tạng. Người tu-hành giải-thoát muôn tầm cái giác, thì phải quay ánh- sáng lại bên trong, quan-sát châu-đáo Như-Lai Tạng, rồi dĩ tận công- phu diệt hết các thứ mê, nhứt là cái mê căn-bổn: vô-minh. Khi các thứ mê hoàn-toàn dứt-tuyệt thì cái giác tự bày rõ.