TẠI GIA BỒ TÁT GIỚI KINH GIẢNG LỤC

Tam Tạng Pháp Sư Đàm Vô Sấm dịch Phạn Hán
Thái Hư Đại Sư giảng
Thích Tịnh Nghiêm dịch Hán Việt

 

Huyền Đàm

I. Sự quan hệ giữa Phật giáo và nhân sinh

a. Thân người khó được, Phật pháp khó nghe

Thực sự mà nói, Đức Phật thuyết pháp, không phải chỉ vì loài người trên địa cầu này, mà là vì tất cả chúng sanh. Cho nên trong kinh có nói: “Vì tất cả chúng sanh trong cùng tận hư không vô biên thế giới mà thuyết pháp.” Hiện nay Phật pháp được lưu truyền trên thế giới này là do Đức Phật Thích Ca, bậc thị hiện thành Phật trong nhân gian, giảng nói. Tuy cũng chỉ là một loại chúng sinh, thế nhưng loài người lại có những ý nghĩa thù thắng. Đức Phật Thích Ca thị hiện thân người thuyết pháp, phần lớn là nhắm vào loài người. Đức Phật nói: “Thân người khó được, Phật pháp khó nghe,” là muốn xác định rằng sinh ra làm người không phải dễ dàng. Nếu dùng Phật pháp quan sát loài người, thì quả thật loài người có nhiều ưu điểm. Thế nhưng, sinh được làm người chưa chắc được nghe Phật pháp. Nếu như không nghe được Phật pháp, sẽ không biết được giá trị của nhân sinh, và như thế, cả một đời người sẽ trở thành luống uỗng. Cần phải nghe Phật pháp thì mới biết được sự tạo nghiệp sẽ đưa đến quả báo đời này qua đời khác, nối tiếp tương tục. Có nhân có quả thì mới sanh được thân người, thế nhưng thân người lại là vô thường. Nếu như trong đời người, hoặc làm ác, hoặc làm thiện, hoặc phát tâm cầu giải thoát, hoặc phát tâm Bồ đề, tức có thể chuyển sinh vào ác thú, thiện thú, hoặc thành A la hán, Bích chi phật, nhẫn đến thành Bồ tát hoặc thành Phật. Đây là do nghe được Phật pháp, mới biết được ý nghĩa sâu rộng của nhân sinh, và do đây mới thấy được quan hệ mật thiết giữa Phật pháp và nhân sinh.

b. Nhân loại là chìa khóa của các sự tội phước, phàm thánh

Con người chỉ là một loại trong vô số loại chúng sinh. Phật pháp thường chia chúng sinh làm mười loại, tức là tứ thánh, lục phàm. Tứ thánh là A la hán, Bích chi phật, Bồ tát và Phật. Bốn bậc thánh này đã vượt thoát được luân hồi sanh tử, còn những chúng sanh đang ở trong luân hồi thì gọi là lục phàm, tức là trời, người, a tu la, ngạ quỷ, súc sanh và địa ngục. Trong lục phàm, chỉ có trời là cao hơn người, còn ở dưới người thì có bốn loài: a tu la, ngạ quỷ, súc sanh, địa ngục, còn gọi là bốn ác thú, tức là những chúng sanh đang thọ ác báo. A tu la, dịch là phi thiên, loại này, người bình dân thường gọi là thần, có phước báo gần như trời, nhưng không có uy đức như loài trời. Loại này tính tình hung hăng, ưa thích đấu tranh, thành thử thường hay thọ khổ. Dưới nữa là loài súc sanh, tức là loại chim muông cầm thú, mà chúng ta thường gọi là động vật. Đây là loại chúng sanh duy nhất mà loài người thấy được. Ngoài ra còn những chúng sanh mà loài người không thấy được, tức là chúng sanh ở cõi u minh, là hai loài ngạ quỷ và địa ngục. Hai loại chúng sanh này toàn là thọ khổ báo. Nói chung, trong mười loại chúng sanh, người và trời đứng ở chính giữa. Về phương diện hưởng thọ phước báo loài trời trội hơn loài người, thế nhưng về phương diện năng lực sáng tạo của thân tâm, thì loài trời lại kém hẳn loài người. Nếu tạo nghiệp ác thì có thể sẽ trong nhiều đời nhiều kiếp thọ ác báo, còn nếu tạo nghiệp thiện, hoặc gặp được Tam bảo, nghe pháp, trì giới, v.v…, thì có thể sẽ trong nhiều đời nhiều kiếp hưởng thọ phước báo. Hơn nữa, từ địa vị phàm phu vượt lên địa vị thánh nhân, thì chỉ có loài người là có thể làm được. Điều này trong nhiều kinh luận khác đã nói rõ.

Từ dị sanh tánh mà có thể sanh khởi thánh đạo, thì chỉ có loài người mới có khả năng, còn các loài loài dị sinh khác không thể làm được; do vì loài người có thể tu tập bố thí, trì giới, đa văn, v.v…, rất nhiều công đức, mà dù là loài trời cũng không thể sánh bằng. Đây là công năng thù thắng của nhân loại, cho nên gọi nhân loại là chìa khóa mở vào bốn đường thánh cùng năm đường phàm kia. Ý nghĩa như thế của nhân sinh, chỉ có Phật giáo là phát huy đến chỗ cùng cực. Nếu không có Phật pháp thì không thể biết được loài người có hy vọng siêu phàm nhập thánh.

c. Giáng sinh nhân gian thành Phật thuyết pháp

Phật pháp là do Đức Thích Ca Mâu Ni nói ra, sau khi Ngài giáng sinh nhân gian, chứng thành Phật quả. Đức Phật có ba thân là pháp tính thân, thọ dụng thân, và biến hóa thân. Pháp tính thân và thọ dụng thân của Phật bao trùm khắp mọi nơi, không có hình tướng để có thể thấy được. Còn như biến hóa thân, thị hiện tám tướng thành đạo , tức là thân của Đức Phật mà nhân loại có thể nhìn thấy. Thân này là do Bồ tát tối hậu thân, từ trời Đâu xuất giáng sinh nhân gian, xuất gia tu đạo, thành Phật thuyết pháp. Từ tám tướng thành Phật này mới có Phật pháp được lưu truyền. Thế nhưng, Phật pháp không những lưu truyền ở nhân gian, mà còn lưu truyền ở thiên cung, long cung, v.v… Nhân vì sự thị hiện thành Phật, thuyết pháp độ sinh đều ở tại nhân gian, do đó chúng ta thấy được Phật pháp và nhân gian có một quan hệ mật thiết. Trưởng giả Bùi Hưu, khi viết bài tựa cho kinh Viên Giác, đã có câu: “Chư thiên chánh lạc, tu la phương sân, quỷ thần trầm u tù chi khổ, súc sinh hoài duật dứu chi bi, kỳ năng chỉnh tâm lự, thú Bồ đề, duy nhân đạo vi năng.” Nghĩa là loài trời chỉ lo hưởng lạc, tu la thì sân hận đấu tranh, quỷ thần chìm trong cõi khổ não tối tăm, súc sanh thì sống trong nỗi sợ hãi kinh hoàng. Còn như có thể tu sửa thân tâm, tiến bước trên con đường Bồ đề, thì chỉ có loài người là có khả năng. Cho nên biết rằng, Phật pháp tuy là vì tất cả chúng sanh, thế nhưng từ sự quan hệ thù thắng mà nói, thì loài người là chỗ Phật pháp có thể nương cậy, còn Phật pháp lại là vật cần thiết nhất cho loài người. Cho nên nhân sinh đối với Phật pháp, cần phải nghiên cứu thấu triệt, và y vào đó mà tu hành.

II. Địa vị của quyển kinh này trong Phật pháp

Sự lưu hành của Phật điển, đại khái có thể chia làm ba tạng: kinh, luật, luận. Lại còn những trước tác của các bậc cổ đức được xếp vào tạp tạng, thành thử tổng cộng có bốn tạng. Quyển kinh Ưu Bà Tắc Giới này thuộc về kinh tạng. Chữ kinh, tiếng Phạn là Tu đa la, tức là sự kết tập tất cả những gì mà Đức Phật đã giảng nói, để lưu truyền tại thế gian. Quyển kinh này có địa vị nào trong các kinh điển của Phật giáo? Ở đây chúng ta sẽ lần lượt phân tích.

a. Ngũ thừa cộng pháp và Đại thừa bất cộng pháp

Phật pháp có thể chia làm ba loại: (i) Ngũ thừa cộng pháp, tức là pháp chung cho người, trời, Thanh văn, Duyên giác và Bồ tát. Trong ngũ thừa cộng pháp này, trời người là cơ sở cho Tam thừa xuất thế kia. (ii) Tam thừa cộng pháp, tức là pháp chung cho sự thoát ly sinh tử luân hồi, tức là pháp Tứ đế của Thanh văn, pháp Thập nhị nhân duyên của Duyên giác, và pháp Lục độ của Bồ tát. (iii) Đại thừa bất cộng pháp, tức là pháp phát tâm Bồ đề, quảng độ chúng sanh, tu học lục độ vạn hạnh để thành Phật. Quyển kinh này, trong ba loại trên, vì có tên Ưu Bà Tắc Giới, nên có thể xếp vào Ngũ thừa cộng pháp; thế nhưng, vì giảng giải về phát Bồ đề tâm, tu học lục độ, quảng độ chúng sanh, cho nên lại có thể xếp vào Đại thừa bất cộng pháp. Chúng ta có thể cho rằng quyển kinh này, vừa là Ngũ thừa cộng pháp, vừa là Đại thừa bất cộng pháp, bởi vì những kẻ thọ trì giới pháp của bộ kinh này, thì được gọi là Bồ tát ưu bà tắc.

b. Trong ba phần cảnh, hành, quả, quyển kinh này đặc biệt chú trọng thực hành

Phần chủ yếu của quyển kinh này, trong ba phần cảnh, hành, quả, là thuyết minh về phần nào? Trong kinh điển của Phật giáo, nói rộng về phần tính tướng của các pháp, thì được gọi là cảnh; nói rộng về trì giới, tu hành lục độ, thì gọi là hành; còn nếu nói rộng về phần phước trí trang nghiêm, công đức của Phật, thì gọi là quả. Trong các kinh điển Phật giáo, hoặc có kinh chú trọng về cảnh, hoặc chú trọng về hành, hoặc chú trọng về quả, lại có kinh chú trọng đến hai, hoặc cả ba phần. Quyển kinh này chú trọng đến sự thọ trì giới hạnh, do đó trong ba phần cảnh hành quả, có thể nói quyển kinh này chú trọng về hành.

c. Lấy giới ưu bà tắc làm trung tâm

Quyển kinh này giảng giải về giới ưu bà tắc, cho nên có thể nói là lấy giới ưu bà tắc làm trung tâm. Hai chữ ưu bà là dịch âm, dịch nghĩa là thanh tín, hoặc dịch là cận sự, hoậc dịch là thiện túc. Nói một cách tổng quát, tức là những đệ tử của Đức Phật, có lòng tin trong sạch, thân cận hộ trì Phật pháp. Chữ tắc, cũng là dịch âm, ý muốn chỉ nam tính. Quyển kinh nảy được giảng giải là do một vị nam cư sĩ chất vấn, nếu luận về tính chất, cũng có thể gọi là Ưu Bà Di Giới kinh; chữ di, là chỉ nữ tính. Bởi vì giới ưu bà tắc không phân biệt đối tượng là nam hay nữ. Quyển kinh này nói về Phật pháp, quan hệ đến tất cả pháp mà Đức Phật đã chứng đắc, thế nhưng lại dùng giới ưu bà tắc làm trung tâm điểm, cho nên phải dùng đây làm đầu mối để quán thông tất cả. Từ quan điểm này mà nhìn, chúng ta có thể nói:  từ phẩm Phát Tâm Bồ Đề cho đến phẩm thọ Giới, là nói rộng về sự thọ giới cho những kẻ có khả năng; từ phẩm Tịnh Giới cho đến phẩm Bát Nhã Ba La Mật, là nói về sự tu hành của kẻ đã thọ giới ưu bà tắc. Cho nên gọi là Ưu bà Tắc Giới Kinh.

d. Lấy Bồ tát tại gia làm trung tâm:

Kinh Ưu Bà Tắc Giới, hay nhất nên gọi là Kinh Bồ Tát Tại Gia. Chúng ta có thể thấy, như trong phẩm Tập Hội đã nói rõ: “Kẻ tại gia phát tâm Bồ đề, thù thắng hơn quả vị A la hán, Bích chi phật.” Lại trong phần cuối của mỗi phẩm đều có đoạn: “Kẻ tại gia phát tâm Bồ đề, v.v… đều khó khăn hơn kẻ xuất gia.” Quyển kinh này, tuy quán thông tất cả Phật pháp, thế nhưng, chung cuộc vẫn lấy Bồ tát tại gia làm trung tâm điểm. Trong kinh tán thán: “Bồ tát tại gia phát tâm Bồ đề, thì từ cõi trời Tứ Thiên Vương cho đến cõi trời A Ca Ni Trá, đều hoan hỷ vui mừng, tôn trọng [kẻ phát tâm] như bậc thầy của trời người.” Trong kinh lại có nói: “Kẻ xuất gia không phải lo việc sinh kế, thọ dụng sự cúng dường của trời người, cho nên đối với pháp Bố thí ba la mật khó có thể thành tựu viên mãn.” Do đó, kinh này được Bồ tát tại gia đặc biệt tôn sùng.

III. Ý thú của người giảng đối với Phật pháp

a. Người giảng không phải là một học giả nghiên cứu Phật kinh

Có người thấy tôi (Thái Hư) trước tác khá nhiều, bèn cho rằng tôi là một học giả chuyên môn nghiên cứu Phật học. Kỳ thực, chuyên tâm nghiên cứu kinh sách Phật giáo để trở thành một học giả chuyên môn, đây cũng không phải là một điều dễ dàng! Tuy rằng trên thế giới cũng có rất nhiều người xem việc học Phật như một loại học vấn thế gian, bỏ nhiều công phu nghiên cứu tìm tòi, thế nhưng tôi đọc kinh sách Phật giáo chỉ cốt tìm tòi chủ ý, không quan tâm đến việc ghi nhớ kinh văn, cũng không cầu một sự thông hiểu thấu đáo, mà chỉ dùng chúng như một công cụ tu hành cho chính mình, cùng giáo hóa chúng sanh.  Cho nên chí nguyện của tôi, không phải để trở thành học giả; những sách vở trước tác, chẳng qua cũng chỉ là phương tiện để chấn hưng Phật giáo cùng hoằng pháp tế độ mọi người mà thôi!

b. Không muốn là con cháu của bất cứ một tông phái nào

Trong Phật pháp, từ xưa đã có những bậc khai sáng truyền thừa một tông phái, như ở Trung Hoa có phái Thiên Thai, Hiền Thủ, v.v… Hơn nữa, trong một tông lại phân chia làm nhiều phái, như Thiền tông phân làm các phái như Lâm Tế, Tào Động, Quy Ngưỡng, v.v… Đây đều là do các bậc cổ đức, đem những tâm đắc từ sự khai ngộ của chính mình, vì để thích ứng vào việc độ hóa chúng sinh mà kiến lập. Sớm nhất, tại Ấn Độ đã có mười tám hoặc hai mười phái Tiểu thừa khác biệt. Sau đó, khi Đại thừa phục hưng, thì lại có sự đối lập giữa Đại thừa và Tiểu thừa. Đại thừa lại phân thành hai tông Pháp tánh và Pháp tướng. Kế đó lại có sự hưng khởi của Chân ngôn tông. Cho nên biết sự đối lập giữa các tông phái, không phải chỉ riêng Trung Hoa mới có.

c. Không tham cầu hiện đời thành Phật

Phật pháp vốn không có giới hạn vào việc lấy hiện đời làm bàn đạp chính, mà là rộng vì tất cả chúng sinh trong pháp giới mà phát tâm. Từ cái nhìn của Phật pháp, mỗi một chúng sinh đều có sự quan hệ hỗ tương với tất cả chúng sinh, và mỗi một thế giới cũng có sự quan hệ hỗ tương với vô lượng thế giới, trùng trùng vô tận, giống như lưới trân châu của trời Đế Thích. Do đây, Phật pháp sinh khởi không phải chỉ vì một đời này, hoặc chỉ vì một thế giới này, bởi vì đương thể của cuộc đời này, hoặc của thế giới này, cũng là vô thỉ, vô chung, vô biên (không ở bên), vô trung (không ở giữa); cho nên sự phát tâm, tu hành, không nên hạn cục trong một khoảng không gian hoặc thời gian, mà phải phổ biến, bình đẳng, siêu vượt tất cả không gian, thời gian, và đồng thời biến nhập vào tất cả không gian, thời gian. Đối với Phật pháp, nếu có thể lý giải, tin tưởng, hành trì như thế, tức là có thể tự giác ngộ, và đồng thời giác ngộ kẻ khác, tinh tiến không ngừng, mà không còn câu nệ vào việc phải nhất định thành Phật trong đời này. Bởi vì thành Phật, chẳng qua chỉ là tự giác ngộ và đồng thời giác ngộ kẻ khác mà thôi. Khi công hạnh Bồ tát viên mãn, tự nhiên sẽ gặt hái kết quả, việc gì mà phải lập định kỳ hạn để mong cầu? Nếu câu nệ vào việc mong cầu, tâm lượng sẽ trở nên hẹp hòi, khó mà tránh được sự sai khiến của tâm cầu vinh, và vì muốn đạt được hư vinh này mà phải truy cầu sự tu hành hình tướng, làm tăng gia phiền muộn, không được tự tại!

Phật pháp, vì muốn tiếp dẫn một loại chúng sinh ưa chuộng “hư vinh”, cho nên đã thiết lập những tên giả (Hán: giả danh) như “lập địa thành Phật”, hoặc “tức thân thành Phật”, nhưng tôi (Thái Hư) quyết không vì những danh từ “rỗng tuếch” này mà khởi tâm mong cầu “hiện đời thành Phật”.

d. Vì những kẻ phát tâm Bồ tát tu hành

Ba đoạn trên là từ phương tiện tiêu cực mà nói, bây giờ sẽ đề cập đến phương diện tích cực. Tôi (Thái Hư) chỉ là một kẻ phàm phu, nghe hiểu Phật pháp, phát tâm tín thọ phụng hành. Tôi nghĩ rằng Ngũ thừa cộng pháp, Tam thừa cộng pháp và Đại thừa bất cộng pháp, đều có thể giúp hành giả đạt đến mục tiêu giác ngộ cứu cánh. Phàm bất cứ ai, từ Đại thừa giáo pháp, quán thông Ngũ thừa, Tam thừa, phát Bồ đề tâm, tu Bồ tát hạnh, đều gọi là Bồ tát. Ý thú của tôi chính là nguyện đem thân phàm phu học Bồ tát hạnh, phát tâm tu hành.

Đại lược, sau khi phát Bồ đề tâm, trải qua địa vị Thập tín, lên Sơ trụ; từ đây trải qua các giai vị Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng, tu Bồ tát hạnh, tức là một Bồ tát đang tích tập tư lương phúc đức và trí tuệ. Hiện nay, có kẻ mới vừa có đôi chút tín tâm, hành trì, liền tỏ ra có thái độ kiêu căng ngạo mạn; họ đâu biết rằng mình còn chưa đạt được một phần nhỏ của sự phát Bồ đề tâm. Theo Đại Thừa Khởi Tín Luận, trước khi nhập vào giai vị “Sơ phát tâm trụ”, hành giả phải tu tập lục độ vạn hạnh trải qua mười ngàn đại kiếp, mới có thể thành một vị Bồ tát chân chánh “sơ phát tâm”, sau đó lại phải trải qua ba đại vô số kiếp mới có thể thành tựu quả vị vô thượng. Tôi là một kẻ phàm phu muốn học tập sự phát tâm Bồ đề chân chánh của Bồ tát để tu hạnh lục độ. Quyển kinh này lại chính là cho những kẻ phàm phu học phát tâm Bồ đề, học tu hạnh lục độ, cho nên rất hợp với ý thú của tôi.

IV. Mục đích giảng giải bộ kinh này

a. Vì muốn kiến lập nhân gian Đại thừa Phật giáo

Trong phần sự quan hệ giữa Phật pháp và nhân sinh, chúng ta đã nói rõ Phật giáo và nhân sinh có một ý nghĩa thâm thiết. Nếu như xét kỹ ý chỉ chân chánh của Phật pháp, thì bất cứ sự chứng đắc, hay tuyên dương giáo pháp nào, đều là Phật pháp Đại thừa. Cho nên muốn hoằng dương Phật pháp, nên dùng nhân loại thế gian mà hoằng dương Đại thừa Phật pháp. Hơn nữa, chỉ có nhân sinh là đang cần Đại thừa Phật pháp nhất, cho nên phải kiến lập nhân gian Đại thừa Phật giáo. Bộ kinh này có thể làm quy củ, mô phạm cho tất cả nam nữ đầy đủ thiện căn, tu hành thành tựu đạo Bồ tát tại gia. Nếu như mọi người y vào kinh này, phát tâm tu hành, lợi mình lợi người, thì nhân gian Đại thừa Phật giáo sẽ do đây mà được kiến lập, nhân loại trên thế giới cũng nhờ sự lợi ích của Đại thừa Phật pháp, mà được hưởng hạnh phúc của sự hòa bình an lạc.

b. Vì muốn đề xướng sự tu hành thực tiển

Trong các người học Phật, do sự nỗ lực nghiên cứu, hoặc có kẻ trở thành một học giả của một tông phái, hoặc có kẻ trở thành một bác học Phật giáo. Tuy đây cũng là sự kiện mà Phật giáo đang cần, thế nhưng tông chỉ của Phật pháp, xưa nay vẫn là sự tu hành thành Vô thượng giác, chứng thực thấu triệt tính tướng của các pháp, rồi từ đó khai thị tính tướng của các pháp, dẫn đạo kẻ khác tu hành thực tiển, hy vọng những kẻ khác cũng sẽ chứng thực thấu triệt tính tướng của các pháp mà thành Vô thượng giác. Vì thế các pháp mà Đức Phật giảng nói đều là chú trọng đến sự thực tiển tu hành. Như trong phẩm Tập Hội đã giảng rõ: “Thể tính của Bồ tát không phải đã tự sẳn có, cũng không phải nương vào Đức Phật mới có, mà là do nhân duyên phát tâm tu hành mới có.” Đây là điểm nhấn mạnh đến sự thực hành rất đặc sắc của bộ kinh này. Hôm nay vì muốn đề xướng những người phát tâm học Phật nên thực tiển tu hành, cho nên đã chọn bộ kinh này để giảng giải.

c. Vì muốn từ căn bản giới học mà tu lên

Bồ tát phân làm hai loại: một là xuất gia, hai là tại gia. Hàng xuất gia là thiểu số, còn hàng tại gia là đa số; bộ kinh này phát huy sự cần thiết của sự học giới cho hàng tại gia, bởi thế có thể phổ cập đến nhân loại. Trong ba pháp học giới, định, huệ, trước tiên phải lấy sự học giới làm cơ bản, nghĩa là do giới sanh định, do định phát huệ. Giới là cơ bản của định, huệ. Sau khi định phát sanh, giới sẽ tương ưng với định mà trở thành định cộng giới. Sau khi huệ phát sanh, giới sẽ tương ưng với huệ mà thành đạo cộng giới. Giới có thể sanh định, nghĩa là do sau khi trì giới đầy đủ, tâm an lý đắc, trong tâm sẽ thường sanh hoan hỷ an lạc, do sự an lạc nên sanh định, y vào định để thể nghiệm quán sát nên sanh ra huệ, tức là thánh trí vô lậu. Bởi thế, học Phật pháp phải nên từ căn bản giới học mà tu lên.

d. Vì muốn từ pháp lục độ phổ thông mà tu tập

Người Trung Hoa có thói quen là muốn nhảy vượt, mà không muốn bị trói buộc vào một trình tự nào hết, hơn nữa, lại ít quan tâm đến sự thực hành bằng con đường phổ thông bình dị. Những người học Phật ưa thích chọn một bộ kinh để nghiên cứu, hay chọn một tông phái nào đó để tu tập, rồi tự cho mình là cao hơn tất cả; đối với các bộ kinh khác, hoặc các tông phái khác, thường sinh khởi sự tranh biện thị phi. Bộ kinh này, trong phẩm Lục Ba La Mật có giảng rõ là chúng ta nên tu pháp lục độ, là phương pháp phổ thông mà các vị Bồ tát thường tu; hơn nữa, lại còn đả phá những quan niệm sai lệch khác, chẳng hạn, hoặc có người cho rằng không nhất định có pháp lục độ, hoặc cho rằng lục độ có thể hợp thành tứ độ, hoặc lục độ hợp thành nhất độ, v.v… Đại khái mà nói, trên phương diện đàm huyền thuyết diệu, thì mọi sự mọi vật đều có thể viên dung, một tức là tất cả, tất cả tức là một, một độ có thể thống nhiếp tất cả độ, tất cả độ có thể nhiếp vào một độ; thế nhưng trên căn bản, trước tiên phải thành lập tướng đặc thù của mỗi độ, rồi sau đó mới có thể hiểu rõ cái lý niệm “tương nhiếp tương dung”. Thế nên, phải từ phương diện sáu độ mà tu tập, thì mới có thể tiến bước trên con đường rộng rãi bằng phẳng, từ địa vị phàm phu, tiến qua các giai vị Bồ tát mà thành Phật.

V. Sơ lược về sự phiên dịch và truyền thừa của bộ kinh này

a. Pháp sư Đàm Vô Sấm dịch tại Cô Tang, đời Bắc Lương

Phần này nói về người dịch, thời đại và địa điểm phiên dịch. Tất cả kinh điển đều do Đức Thích Tôn giảng thuyết, và do các đệ tử kết tập lại. Thời đó, hoặc dùng văn tự ghi chép, hoặc dùng đọc tụng truyền khẩu, đều là dùng những ngữ văn Ấn độ như Pali, hoặc Phạn văn. Bộ kinh này được dịch từ Phạn văn ra Hán văn, do ngài Đàm Vô Sấm dịch tại Cô Tang, đời Bắc Lương. Bắc Lương là một triều đại được thành lập ở đất Cam Túc, vào khoảng triều đại Nam triều Lưu Tống Văn Đế. Cô Tang, hiện nay là thành phố Lương Châu ở tỉnh Cam Túc, là thủ đô của Bắc Lương thời đó. Bộ kinh này dịch tại Bắc Lương vào triều đại Trở Cừ Mông Tốn, từ khoảng năm Huyền Thỉ thứ 13 đến năm thứ 15, cũng tức là từ năm Nguyên Gia thứ 3 đến năm thứ 5 của triều đại Lưu Tống Văn Đế. Người dịch là ngài Đàm Vô Sấm, Đàm Vô (Dharma, 法) có nghĩa là Pháp, Sấm (Rakùa, 讖) có nghĩa là Phong (phong phú), gọi chung là Pháp Phong. Pháp sư Pháp Phong thông đạt kinh, luật, luận, cho nên xưng là Tam tạng pháp sư. Bộ kinh này là do ngài Pháp Phong phiên dịch sau khi đến thành Cô Tang, Bắc Lương. Các kinh điển mà ngài dịch sang Hán văn, ngoài bộ kinh này, còn có các kinh Niết Bàn, Đại Tập, Kim Quang Minh, v.v… Hơn nữa, bản dịch xưa nhất của Bồ Tát Giới Bổn Kinh cũng là do ngài dịch. Do đây, ngài được tôn xưng là sơ tổ của Niết Bàn Tông, mà cũng là vị tổ hoằng truyền Bồ tát giới pháp. Quyển Bồ Tát Giới Bổn do ngài dịch, so với quyển Du Già Bồ Tát Giới do ngài Huyền Tráng dịch, tuy cùng một nguyên bản, nhưng có phần sơ lược hơn. Do đây có thể nói, ngài Đạt Ma Ca La (Hán dịch là Pháp Thời) là người đầu tiên truyền giới pháp Thanh văn, còn ngài Pháp Phong là người đầu tiên truyền giới pháp Bồ tát. Do Pháp sư Pháp Phong phiên dịch bộ kinh này, chúng ta có thể biết rằng đây là một sự kết tinh của giáo pháp Đại thừa và Bồ tát giới. Cho nên trong đây nói về giới ưu bà tắc, tức là nói về giới hạnh của Bồ tát ưu bà tắc.

b. Biện biệt các bộ kinh cùng loại với kinh này

Các bộ kinh cùng loại với kinh này là: (1) Ưu Bà Tắc Giới Kinh trong bộ kinh Trung A Hàm, do ngài Cù Đàm Tăng Già Đề Bà phiên dịch. Kinh này giảng về ngũ giới, tức là năm giới phổ thông mà mọi người đều biết đến; (2) Ưu Bà Tắc Ngũ Giới Tướng Kinh, do ngài Cầu Đa Bạt Ma dịch. Đức Phật nhân vì Phụ vương Tịnh Phạn hỏi mà giảng nói, cũng là năm giới phổ thông. Bởi thế, hai bộ này khác với bổn kinh. Lại có: (3) Ưu Bà Di Tịnh Hạnh Pháp Môn Kinh, cũng do ngài Cầu Na Bạt Ma dịch; kỳ thực đây chỉ là bản dịch khác của quyển Du Già Bồ Tát Giới. Lại còn, (4) Ưu Bà Di Tịnh Hạnh Pháp Môn Kinh, cũng khác với bổn kinh. Kinh này nói về Đức Phật giảng pháp cho bà ưu bà di Lộc Mẫu. Lộc Mẫu là một bà cự phú, đã từng xây Trúc Lâm Tinh Xá cúng dường Phật, tức là kẻ  tu hành Đại thừa ưu bà tắc giới. Các vị ưu bà di phát tâm tu hạnh Đại thừa cũng có thể y vào bổn kinh mà tu tập. Hơn nữa, bổn kinh là do Đức Phật nhân vì Thiện Sinh hỏi mà giảng nói, thế nhưng, cùng tên Thiện Sinh Kinh, có một số bản dịch: (1) Phật Thuyết Thi Ca La Việt (Thiện Sinh) Lục Phương Lễ Kinh, do ngài An Thế Cao dịch vào đời Hậu Hán; (2) Phật Thuyết Thiện Sinh Tử Kinh, do ngài Chi Pháp Độ dịch vào đời Tây Tấn; (3) Thiện Sinh Kinh (Kinh số 33 của bộ Trung A Hàm); (4) Thiện Sinh Kinh (trong bộ Trường A Hàm). Bốn bộ kinh này có quan hệ với bổn kinh, thế nhưng kinh văn lại rất ngắn, chỉ độ một phần của phẩm Thọ Giới của bổn kinh; đây cũng giống trường hợp trong Tiểu thừa có Ma Đăng Già Nữ Kinh, thì trong Đại thừa có Thủ Lăng Nghiêm Kinh mười quyển; các bộ kinh về Thiện Sinh trong Tiểu thừa quan hệ với Ưu Bà Tắc Giới Kinh trong Đại thừa cũng tương tự như vậy.

c. Bổn kinh và Ưu Bà Tắc Giới Bổn

Có bản dịch lưu hành tên Ưu Bà Tắc Giới Kinh Thọ Sinh Phẩm, tức là phẩm Thọ Giới của bổn kinh, nội dung gồm 6 giới trọng, 28 giới khinh, cùng với Phạm Võng Kinh, 10 giới trọng, 48 giới khinh, và Du Già Bồ Tát Giới Bổn, 4 giới trọng, 43 giới kinh, tất cả đều là những quyển giới bổn đang lưu hành, thường được đọc tụng.

Chú thích:

Dị sanh tánh: tức lục phàm (trời, người, a tu la, ngạ quỷ, súc sanh, địa ngục)

Tám tướng: Có hai thuyết chính là: (a) Giáng sinh, nhập thai, trụ thai, xuất thai, xuất gia, thành đạo, chuyển pháp luân, nhập Niết bàn. (b) Giáng sinh, nhập thai, xuất thai, xuất gia, hàng ma, thành đạo, chuyển pháp luân, nhập Niết bàn.